Đơn giản hóa hay làm phát sinh thêm thủ tục, giấy tờ?
Nếu dự thảo Luật Căn cước công dân được thông qua đồng nghĩa với việc phát sinh mối quan hệ giữa các loại giấy tờ như thẻ căn cước, giấy chứng minh nhân dân 9 số đang sử dụng hiện tại, chứng minh nhân dân 12 số đang áp dụng thí điểm tại một số khu vực. Như vậy, thời gian tới trong thực tế sẽ tồn tại cả 3 loại giấy tờ trên. Thẻ căn cước ra đời mà chưa thay thế được các giấy tờ liên quan như chứng minh thư nhân dân, giấy khai sinh, sổ hộ khẩu, sổ đỏ thì không những không đơn giản hóa mà còn làm phát sinh thêm thủ tục.
ĐBQH Triệu Thị Thu Phương (Bắc Kạn): Thẻ căn cước ra đời mà chưa thay thế được các giấy tờ liên quan thì không những không đơn giản hóa mà còn làm phát sinh thêm thủ tục
Tôi băn khoăn về hai loại chứng minh thư, một thẻ căn cước lưu hành cùng lúc. Nếu dự thảo luật được thông qua đồng nghĩa với việc phát sinh mối quan hệ giữa các loại giấy tờ như thẻ căn cước, giấy chứng minh nhân dân 9 số đang sử dụng hiện tại, chứng minh nhân dân 12 số đang áp dụng thí điểm tại một số khu vực. Như vậy, thời gian tới trong thực tế sẽ tồn tại cả 3 loại giấy tờ trên. Theo đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính và giấy tờ công dân Bộ Công an đang triển khai, việc xây dựng cơ sở dữ liệu về dân cư làm kho số định danh cá nhân đã tốn trên 3.000 tỷ, dự kiến việc chuyển từ chứng minh nhân dân 9 số sang 12 số, 12 số này trùng với số định danh cá nhân phải mất một thời gian dài, trong khi theo luật này đến năm 2020 hoàn thành việc cấp thẻ căn cước, việc này sẽ gây lãng phí lớn về kinh phí, thời gian và nguồn nhân lực.
Trên thực tế, chứng minh thư 12 số hiện đang được làm theo công nghệ của nước ngoài, nhưng cũng là công nghệ cũ từ năm 1997, phôi thẻ mua đắt, vậy mà đầu tư xong lại chuyển sang làm thẻ căn cước thì rất lãng phí. Kinh nghiệm vừa qua cho thấy, việc chuyển từ chứng minh thứ 9 số sang 12 số cũng rất rắc rối, phức tạp thêm cho công dân khi phải cấp kèm giấy chứng nhận 2 số chứng minh mới và cũ đều là một người, khi đó người dân tham gia các giao dịch phải trình đến 3 loại giấy, chứ không giảm được loại giấy tờ nào. Thẻ căn cước thay thế chứng minh thư về lâu dài có thể là đúng hướng, cần thiết nhưng cần có lộ trình phù hợp, vì hiện nhiều loại giấy tờ, thủ tục chưa bỏ được, chỉ trong ít năm mà chuyển hết từ chứng minh thư cũ sang chứng minh thư mới, rồi khi có thẻ căn cước lại thay thế cả hai loại giấy tờ này thì rất lãng phí. Tôi e rằng không cẩn thận vừa làm khó cho người quản lý, vừa làm khó cho người dân nếu luật được thông qua thì dự kiến 1/7/2015 từ thời điểm luật có hiệu lực, chứng minh thư nào hết hạn 15 năm sử dụng sẽ được thay thế bằng thẻ căn cước. Vì vậy, theo tôi trước khi triển khai thông qua dự án Luật Căn cước công dân cần đánh giá tác động từ nhiều mặt, cả quản lý nhà nước tới điều kiện sinh hoạt của công dân. Cần đánh giá xã hội học, công tác tuyên truyền, giới thiệu, thậm chí có thử nghiệm để người dân hiểu đây là một dạng quản lý giao dịch hiện đại.
Thẻ căn cước ra đời mà chưa thay thế được các giấy tờ liên quan như chứng minh thư nhân dân, giấy khai sinh, sổ hộ khẩu, sổ đỏ thì không những không đơn giản hóa mà còn làm phát sinh thêm thủ tục. Vì vậy tôi đồng tình với một số ý kiến là nên lùi thời gian xem xét thông qua dự án luật này.
ĐBQH Nguyễn Thanh Thụy (Bình Định): Tính toán kỹ hơn những lợi ích của chính sách mang lại
Dự thảo luật quy định cấp thẻ căn cước công dân thay cho chứng minh nhân dân. Thẻ căn cước công dân chứa đựng các thông tin cơ bản về gốc tích và nhận dạng, đây là sự thay đổi lớn tạo thuận lợi cho người dân trong các giao dịch dân sự, cũng như đáp ứng nhu cầu về quản lý nhà nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là bước cụ thể hóa Hiến pháp về quyền con người. Tuy nhiên, trong tờ trình và báo cáo đánh giá tác động chưa làm rõ được sự cần thiết phải thay tên gọi, chưa có đánh giá so sánh lợi ích, chi phí của hai phương án là giữ tên gọi là chứng minh nhân dân và đổi thành thẻ chứng minh nhân dân để chứng minh cho sự thay đổi này là cần thiết. Báo cáo đánh giá tác động mới đề cập đến quy định chuyển tiếp cho phép tiếp tục sử dụng chứng minh nhân dân, không phải mất chi phí, công sức, thời gian để đổi từ chứng minh nhân dân sang thẻ căn cước công dân. Theo tôi đánh giá này chưa thật đầy đủ và chính xác. Do vậy, để bảo đảm việc thay đổi chính sách là cần thiết và mang lại lợi ích cho toàn xã hội và tính khả thi của chính sách này, đề nghị nghiên cứu lại quy định này bởi các lý do sau.
Thứ nhất, Ban soạn thảo chưa dự liệu hết kinh phí của nhà nước và người dân phải bỏ ra để chuyển từ chứng minh nhân dân sang căn cước công dân. Báo cáo mới tính đến chi phí in mới các biểu mẫu giấy tờ và chỉnh lý các phần mềm đang sử dụng tên gọi chứng minh nhân dân mà chưa tính đến nhiều công việc cần có kinh phí mới triển khai được, trong đó có công tác thu thập từ người dân khi cơ sở dữ liệu quốc gia về dân số chưa có hoặc không đầy đủ để làm thẻ căn cước công dân, nguồn lực rất lớn và cũng chưa tính đến độ chính xác của các thông tin thu thập được. Mặt khác, hiện nay có hàng chục, thậm chí hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật từ Trung ương đến địa phương có quy định liên quan đến chứng minh nhân dân đặc biệt là các văn bản liên quan đến thủ tục hành chính yêu cầu người dân phải xuất trình chứng minh nhân dân. Ví dụ pháp luật về hộ tịch quy định khi đăng ký hộ tịch phải xuất trình chứng minh nhân dân. Pháp luật về xuất, nhập cảnh quy định khi làm hộ chiếu phải xuất trình chứng minh nhân dân, như vậy nếu thay đổi tên gọi chứng minh nhân dân thành thẻ căn cước công dân thì những văn bản quy phạm pháp luật có sử dụng thuật ngữ chứng minh nhân dân phải sửa đổi, bổ sung thành căn cước công dân cho phù hợp với Luật Căn cước công dân. Do vậy, để thấy được lợi ích của việc thay đổi, cơ quan soạn thảo cần đánh giá chi phí cho sự sửa đổi, bổ sung để sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật này.
Thứ hai, chứng minh nhân dân là tên gọi quá quen thuộc được sử dụng ổn định trong cả nước từ sau năm 1975, trong quá trình sử dụng tên gọi này không gây khó hiểu, nhầm lẫn trong nhân dân. Do vậy, nên được kế thừa trong Luật Căn cước công dân để tránh những rắc rối, xáo trộn không cần thiết.
Về cấp thẻ căn cước công dân cho người dưới 15 tuổi, theo cơ quan soạn thảo việc cấp thẻ căn cước công dân cho người dưới 15 tuổi nhằm bảo đảm quyền giao dịch của công dân. Theo quy định của Hiến pháp và để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước đối với nhóm đối tượng này, để bảo đảm tính khả thi và thống nhất của dự thảo luật, cơ quan soạn thảo cần làm rõ thêm: thứ nhất, mục đích quản lý nhà nước đối với những người dưới 15 tuổi, báo cáo đánh giá tác động chưa làm rõ được vai trò, ý nghĩa của các thông tin. Trong thẻ căn cước công dân của người dưới 15 tuổi đóng góp như thế nào cho công tác phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự, an ninh, xã hội hay trong hoạch định chính sách? Do vậy nếu phải bỏ ra một khoản tiền rất lớn, đồng thời làm xáo trộn hồ sơ giấy tờ về căn cước công dân trong lúc việc quản lý nhóm đối tượng này thông qua các cơ quan, đoàn thể và trường học rất hiệu quả. Vì vậy cơ quan soạn thảo cần đánh giá lại tác động của quy định này. Thứ hai, mục đích chủ yếu của quy định này là nhằm bảo đảm quyền giao dịch của công dân theo quy định của Hiến pháp, tuy nhiên, đối với những người dưới 15 tuổi thì Bộ luật Dân sự quy định: trong mọi trường hợp kể cả xuất trình thẻ căn cước công dân thì những giao dịch dân sự của người dưới 15 tuổi hoặc phải có người đại diện theo pháp luật thực hiện hoặc phải được sự đồng ý của họ. Như vậy, nếu so sánh chi phí phải bỏ ra là 648 tỷ đồng và lợi ích của chính sách này mang lại thì cần phải được tính toán kỹ hơn.
ĐBQH Đặng Thị Kim Liên (Yên Bái): Cân nhắc kỹ có nên quy định việc cấp thẻ căn cước đối với trẻ dưới 14 tuổi không
Tôi đồng tình với việc luật hóa quản lý thông tin công dân, thông qua Luật Căn cước. Tuy nhiên, cần nghiên cứu kỹ để bảo đảm mục tiêu đơn giản hóa thủ tục hành chính, tránh rườm rà cho người dân khi sử dụng giấy tờ. Do đó, tôi đề nghị lui lại thời điểm luật có hiệu lực và xây dựng lộ trình thực hiện bảo đảm tính khả thi của luật, tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật.
Về tuổi cấp thẻ căn cước công dân, dự thảo luật quy định cấp thẻ căn cước công dân cho trẻ từ khi sinh ra đến đủ 14 tuổi thì cấp đổi và bổ sung định dạng bằng hình ảnh và vân tay. Tôi đề nghi cân nhắc kỹ có nên quy định việc cấp thẻ đối với trẻ dưới 14 tuổi không bởi các lý do: thứ nhất, với trẻ dưới 14 tuổi đặc điểm nhận dạng chưa ổn định, chưa phải chịu trách nhiệm về hình sự và trong các giao dịch dân sự cũng cần có cha mẹ hay người giám hộ nào đại diện. Trong khi đó tại Điều 3 dự thảo luật quy định thẻ căn cước công dân là một thẻ định dạng thêm cho công dân. Mà định dạng riêng phân biệt người này với người khác, cần căn cứ vào nhiều yếu tố, trong đó có hai yếu tố quan trọng quy định dạng bên ngoài, đó là hình ảnh và vân tay. Như vậy chưa tạo sự thống nhất trong dự thảo luật. Thứ hai, tạo sự phiền hà cho công dân, trẻ sinh ra đã được đăng ký khai sinh. Đây là quyền của trẻ em được quy định trong Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em Bộ luật Dân sự và cũng được ghi nhận trong Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em. Việc cấp thẻ căn cước công dân cho trẻ từ khi sinh ra là thêm thủ tục cho công dân. Thứ ba, tạo sự tốn kém không cần thiết, dự thảo luật quy định đủ 14 tuổi thì đổi, cấp lại thẻ và bổ sung định dạng bằng hình ảnh và vân tay.
Những lý do nêu trên cho thấy thẻ căn cước công dân được cấp cho trẻ dưới 14 tuổi không bảo đảm được phân biệt với người khác. Vậy mục đích dự thảo luật định hướng đến đối với cấp thẻ căn cước công dân cho trẻ dưới 14 tuổi là gì, đề nghị cần làm rõ. Theo tôi nên quy định theo hướng trẻ sinh ra, bên cạnh đăng ký khai sinh vẫn đăng ký thông tin vào cơ sở dữ liệu đến khi đủ 14 tuổi sẽ cấp thẻ đầy đủ với định dạng cá nhân như quy định của dự thảo luật.
Về đối tượng áp dụng Điều 2. Việc đưa đối tượng áp dụng là cơ quan tổ chức hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang hàm ý chung và rộng trong khi phạm vi điều chỉnh quy định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến căn cước công dân. Việc các cơ quan, tổ chức hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, bao gồm cơ quan, tổ chức nước ngoài đặt tại Việt Nam khi khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư hoặc thông tin cá nhân của công dân Việt Nam về căn cước công dân phải có sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền theo luật định và bảo đảm nguyên tắc quản lý căn cước công dân được quy định tại Khoản 1, Điều 4 của dự thảo luật. Do đó, tôi đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, quy định lại nội dung này để bảo đảm đối tượng áp dụng phù hợp với phạm vi điều chỉnh của nội dung luật định hướng đến. Đồng nghĩa với đó là cần quy định thêm một khoản tại Điều 4 về nguyên tắc quản lý công dân.
ĐBQH Nguyễn Ngọc Phương (Quảng Bình): Thẻ căn cước không thể thay giấy khai sinh
Tôi không đồng tình với việc thay đổi tên gọi chứng minh nhân dân thành căn cước nhân dân. QH bấm nút đồng tình để thông qua thì rất đơn giản, nhưng hệ lụy kéo theo rất phức tạp. Ví dụ, tất cả các bộ, ban, ngành phải thay đổi toàn bộ hồ sơ, lý lịch và những giấy tờ chúng ta đã in sẵn để thay từ chứng minh nhân dân thành căn cước nhân dân thì bao nhiêu là tốn kém. Chưa nói đến là các văn bản giấy tờ rồi đây trong lưu trữ lẫn lộn, trùng lặp, có hồ sơ thì chứng minh nhân dân, có hồ sơ thì căn cước nhân dân, rất phức tạp cho hồ sơ lý lịch trong quá trình quản lý. Trong lúc đó bản chất của căn cước nhân dân và chứng minh nhân dân không có gì thay đổi thì tội gì phải thay đổi tên gọi, nếu bản chất thay đổi thì mới thay đổi tên gọi, còn bản chất không thay đổi thì tên gọi giữ nguyên.
Tôi không đồng tình với việc cấp căn cước cho công dân dưới 15 tuổi, bởi: thứ nhất, trong bản thân luật đã có sự mâu thuẫn, về giải thích từ ngữ căn cước công dân là các thông tin cơ bản về gốc tích, đặc điểm nhân dạng của công dân theo quy định của luật để nhận dạng một con người hoặc phân biệt người này với người khác. Điểm b, Điều 10 quy định thông tin, tài liệu xác nhận phải có ảnh chân dung. Điểm b, Điều 11 thông tin tài liệu thu thập phải có đặc điểm về nhân dạng và vân tay. Trong lúc đó các Điều 18 người dưới 15 tuổi không in ảnh, vân tay và ghi đặc điểm nhân dạng người đó lên thẻ. Như vậy là Điều 18 mâu thuẫn với 3 điểm trên. Một thực tế là dưới 15 tuổi thì không thể ổn định về nhân dạng, đặc điểm, chân dung được. Thứ hai, việc cấp thẻ căn cước cho công dân dưới 15 tuổi không phù hợp và gây phiền hà với những vấn đề sau: Điều 21 quy định thủ tục cấp thẻ người đến làm thủ tục cấp thẻ căn cước phải xuất trình giấy tờ, viết tờ khai, phải có người đại diện hợp pháp. Điều đó có nghĩa là “anh” vừa sinh ra phải đến để khai thì phức tạp hơn chuyện sinh ra đứa trẻ ở nhà và bố hoặc mẹ đi khai sinh, nó đơn giản thủ tục rất nhiều.
Một điểm nữa là có thẻ thì phải giữ thẻ, 15 năm thẻ này gần như phải cất, nếu mất thì phải đi làm lại thì rất phiền hà. Việc làm thẻ căn cước cho trẻ dưới 15 tuổi sẽ tăng thêm biên chế, tăng thêm kỹ thuật về công nghệ, về phương tiện phục vụ trong khi đó công an hiện nay có rất nhiều việc phải làm. Nó cũng không phù hợp với yêu cầu tinh giảm biên chế hiện nay. Đặc biệt giá của thẻ căn cước này sẽ đắt hơn giấy khai sinh rất nhiều, trong lúc cũng chưa nhất thiết sử dụng thẻ căn cước này thành giấy tờ tùy thân cho đối tượng là các em dưới 15 tuổi, không cần giấy tờ tùy thân vì nó phải đi theo bố mẹ, lệ thuộc bố mẹ... Đây là những điểm tôi thấy không nhất thiết. Điều khẳng định cuối cùng là thẻ căn cước này không thể thay giấy khai sinh. Giấy khai sinh là mọi người sinh ra đều có quyền còn thẻ căn cước chỉ cấp cho công dân.
Một điểm nữa tôi đề nghị cần phải cân nhắc và giải quyết những mâu thuẫn hiện nay giữa Luật Hộ tịch với Luật Căn cước. Đề nghị UBTVQH cần phải cân nhắc, làm rõ, phải giải quyết mâu thuẫn hiện nay đặc biệt giữa hộ tịch, giữa căn cước và giấy khai sinh.