Giếng và long mạch

Phạm Thuận Thành 30/04/2014 08:54

Ngày nay nông thôn đã phổ biến có giếng khơi gia đình, đang tiến tới giếng khoan và dùng nước máy. Nhưng tình cảm với giếng làng thời cách đây chưa lâu vẫn còn sâu đậm trong tâm trí nhiều người, nhất là người cao tuổi. Giếng cấp nước ăn cho cả làng. Bao ân tình với giếng và bao hẹn hò đôi lứa mỗi lần cùng ra lấy nước về dùng.

Giếng làng Ảnh: Nguyễn Quang Tuấn
Giếng làng                                                           Ảnh: Nguyễn Quang Tuấn

Tại sao người ta không tự đào lấy giếng gia đình? Đó là do quan niệm. Người dân tin rằng mạch đất chứa nước chính là long mạch, một phần máu thịt của các vị tiên thánh dòng dõi Lạc Long Quân, những người có công lập nước và truyền lại cho đời sau. Thời Đường, thái thú Cao Biền đã phá hủy bao nhiêu long mạch quan trọng, mưu đồ phá hủy sự nhất thống của nước Việt độc lập. Vì vậy, đào giếng lấy nước mạch ăn là điều cấm kỵ. Muốn đào giếng phải có bậc cao tăng làm phép cầu khấn và phí tổn cho việc đào giếng là không nhỏ so với mức sống của người dân. Cho nên giếng làng thời xưa phần nhiều là giếng ở chùa.

Chùa Bút Tháp (Thuận Thành, Bắc Ninh) hiện còn một giếng cổ kè đá thời dựng chùa giữa thế kỷ XVII.

Chùa Khánh Vân (Thuận Thành) còn giếng cổ bờ đất nhưng mới được xây thành và cải tạo thành hồ nhỏ có tượng Quan Âm ở giữa.

Tuy nhiên những giếng này không có văn bia để lại. Hiện nay ở huyện Yên Phong, Bắc Ninh có ba giếng chùa có văn bia cho biết việc đào giếng thời xưa là rất hệ trọng. Bởi qua tìm hiểu, trị giá một tấm bia đá ngang với nếp nhà gỗ lim ba gian.

Bia giếng chùa Linh Quang (Ngô Xá) liệt kê mấy chục người góp tiền đào giếng và có bài minh: “Linh Quang danh tích/ Địa thế mênh mông/ Sãi vãi gắng công/ Xây thành giếng lớn/ Lộc truyền con cháu/ Phúc hưởng an bình/ Lưu truyền vĩnh viễn/ Dựng bia ghi minh”.

Bia giếng chùa Vân La (Phù Lưu) ghi rõ ngày dựng bia 24.10 Vĩnh Tộ thứ 4 (1622) và liệt kê gần 200 người góp tiền của đào giếng.

Bia giếng chùa Cẩm Quang (Ngân Cầu) dựng ngày 20.5 Hoằng Định thứ 17 (1616) thì chỉ liệt kê những người góp tiền của để đào giếng.

Giếng làng Yên Ngô (Thuận Thành) nay đã lấp để mở rộng đường giao thông liên xã. Dân làng có thổ âm rất nặng so với các làng xung quanh. Dân làng vẫn tin rằng do “ăn nước giếng nặng” mà nên. Sở dĩ nước giếng làng bị nặng là do khi đào giếng mạch nước kém, người ta phải dùng ba chiếc cọc gỗ lim đóng sâu xuống lấy mạch nước, rồi nước phun mạnh quá mà đành bỏ lại cọc.

Giếng làng Bưởi Nồi (Gia Bình) xây thành đá có vết lõm, dân làng truyền lại rằng đó là vết ngựa Thánh Gióng quỳ uống nước thời xa xưa mà thành.

Ngày nay các làng có giếng cổ còn lại đều nhận thấy giá trị tinh thần của giếng mà xây dựng và bảo tồn chu đáo. Không còn ăn nước giếng chung nữa nhưng sự tồn tại của giếng làng vừa là cảnh quan, vừa là bằng chứng lịch sử lập làng để cho con cháu sau này biết đến. Giếng quê là một phần hồn cốt của làng quê. Một bờ đất đơn sơ, chiếc gầu tre nhỏ bé/ Nghiêng nghiêng một cành khế/ Ôi giếng nước quê hương/… Bao người đã lớn khôn, bao người còn thơ dại/ Giếng quê mình xanh mãi/ Tắm mát cả đời tôi (Bài hát Giếng quê của nhạc sỹ Thuận Yến).

Phạm Thuận Thành