BỐ VỚI BA (Phần 1)
Truyện ngắn của Lại Văn Long

12/03/2014 08:50

>> BỐ VỚI BA (Phần cuối)

Lần đầu ra Bắc, lòng tôi rộn ràng cảm xúc. Miền Bắc buồn buồn bước ra từ những trang lãng mạn của Tự lực văn đoàn, từ lời ca mộng mị đẫm sương gió tiền chiến, từ khổ đau bần hàn, uất nghẹn của văn chương hiện thực phê phán. Miền Bắc chỉ tươi vui, sáng sủa hơn qua nghệ thuật nhờ khói lửa cuộc chiến tranh chống Mỹ. Rồi có cả miền Bắc thì thầm, dằn vặt trên Internet với quá khứ bị giấu diếm… Từ sân bay Gia Lâm, ông anh cọc chèo lái ô tô đưa gia đình tôi thẳng về quê nhãn Hưng Yên. Nhà bên vợ tôi cũ mới lẫn lộn. Căn nhà ba gian mái ngói rêu phong, cột kèo mòn mỏi từ mấy đời trước để lại giờ nhỏ bé, thấp lè tè sau lưng căn nhà lầu mới kiêu kỳ. Bà ngoại của hai con tôi vẫn chít khăn mỏ quạ, ngày ngày ngồi xỉa trầu trên bộ phản cũ kỹ đặt trên nền gạch Tàu ẩm mốc bên cạnh bàn thờ gia tiên và di ảnh của chồng. Bà từng vào Sài Gòn ở với vợ chồng tôi được non tháng thì nằng nặc đòi về vì nhớ quê. Hà vợ tôi học xong đại học công tác Hà Nội vài năm rồi chuyển vào Sài Gòn. Chị Cả hơn Hà một giáp bất đắc dĩ đóng vai “trai trưởng” ở lại nhà từ đường chăm sóc cho mẹ đã gần tám mươi. Thấy thằng em rể và hai đứa cháu từ miền Nam ra, chị dốc toàn lực phô trương sự giàu có nhờ nghề buôn gỗ Lào. Ngoài căn nhà lầu bề thế, chiếc ô tô Hàn Quốc mới coóng, trên người chị lấp lánh bông tai dây chuyền vàng chóe và nhẫn khắp ngón tay. Lúc đón chúng tôi chị tươi cười trong quần bò áo phông hàng hiệu. Một tiếng đồng hồ sau là hàng lụa may theo kiểu Thượng Hải, tóc búi cao. Buổi chiều là tóc ngang lưng, váy ngang đùi trẻ trung, hớn hở. Hôm sau, hôm sau nữa, chị cứ liên tục diện đồ mới ba bốn lần mỗi ngày, đến mức Hà phải thốt lên:

Minh họa của Đặng Hồng Quân
Minh họa của Đặng Hồng Quân

- Chị giống diễn viên quá, mỗi cảnh một bộ.

Chị cười hãnh diện:

- Hai cháu đều có gia đình, nhà cửa ở Hà Nội rồi, chúng đang đưa vợ con đi du lịch nước ngoài. Chị bây giờ thoải mái, ăn chơi thôi.

 Anh An chồng chị rất hiền. Suốt mấy ngày chỉ thấy anh quần cộc áo thun ngồi ở bộ ghế chạm trổ như ngai vua, rít thuốc lào sòng sọc. Con gái tám tuổi, con trai bốn tuổi của tôi há hốc, mê mẩn nhìn đám khói cuồn cuộn anh phun ra như phép màu trong chuyện cổ tích. Ba ngày ở chung nhà, anh rất ít lời, trong lúc chị Cả réo rắt từ sớm đến khuya. Sợ chúng tôi nghĩ anh ấy thiếu nhiệt tình, chị phân bua:

- Tính anh là vậy. Có khi chị làm ăn trúng mấy trăm triệu, anh chẳng nói gì, một nụ cười cũng không.

Ngày giỗ bố vợ tôi, mâm cúng được đặt dưới gian từ đường cũ. Tôi hỏi chị Cả:

- Sao không đưa các cụ với bố lên nhà trên thờ?

Chị bảo:

- Mẹ cho chị xây nhà nhưng không cho dời bàn thờ, dù tầng trên em thấy đấy chị đã cho làm gian thờ hoành tráng.

Tôi không hỏi thêm, cùng với Hà lo bày mâm cúng. Chị Cả lấy trong tủ thờ ra một khối vuông vuông, phủ vải đỏ thận trọng đặt bên cạnh mâm cúng. Chị hỏi vợ tôi:

- Cái Hà còn nhớ cái này không?

Hà lật tấm vải, đó là cái radio khá lớn với vỏ nhựa màu đen và quai xách bằng kim loại trắng. Hà mân mê cái đài, đôi mắt mơ màng.

Buổi chiều, khách dự giỗ về hết và việc rửa dọn đã xong, Hà với chị Cả lại lau chùi thật kỹ cái đài trước khi phủ vải đỏ, bọc nylon và cho nó vào một thùng các tông để cất giữ. Họ làm tỉ mỉ, thận trọng, nét mặt thiêng liêng, kính cẩn. Tôi từ nhà trên bước xuống thấy hai chị em đã lau xong đài, đang tẩn mẩn dùng bông gòn với cồn lau mấy cái đĩa than rồi bỏ vào những cái bao giấy cứng của nó… Thì ra đây là cái radio kèm máy hát đĩa. Chị Cả ngoắc tôi lại:

- Hải, đến đây xem báu vật của gia đình mình. Quý hơn nhà lầu, ô tô, vàng bạc đấy em.

Tôi mỉm cười ngán ngẩm trò khoe của của bà chị vợ nhưng cũng ghé ngồi xuống phản, kéo cái đài đã lau sạch bóng đến ngắm nghía, rờ rẫm. Ngón tay tôi bỗng rờ trúng một chỗ khuyết trên cái gờ bên hông đài, cùng lúc đó là linh cảm kỳ lạ nhóa lên làm tôi choáng váng, tê rần hai bên thái dương. Tôi hít một hơi sâu để lấy lại bình tĩnh, hỏi chị Cả:
- Trong bộ đĩa kèm theo cái đài này có đĩa cải lương “Bà chúa ăn mày” phải không chị?

Chị gật đầu, tim tôi đập thình thịch, tôi hấp tấp hỏi tiếp:

- Cái bao giấy của đĩa đó có hình một chàng trai đứng cạnh công chúa và một ông nài ngồi bên cạnh con voi quỳ?

Chị lại gật đầu, tôi hụt hơi lắp bắp:

- Cả ba người trong hình bìa đó đều bị vẽ râu bằng mực bút nguyên tử (bút bi) xanh phải không chị?

Chị Cả lôi trong đống lộn xộn ra cái đĩa mà tôi cần tìm. Tôi cầm lên, hổn hển:

- Thấy chưa, cả ba người trong hình đều bị vẽ râu… nét mực đã mờ nhưng vẫn thấy.

Bây giờ đến lượt chị em Hà kinh ngạc, Hà ngơ ngác hỏi:

- Thế là sao hở anh?

Tôi ngây ngất với cảm xúc đang dâng trào nói như bà đồng bị ma nhập:

- Sau lưng nó có hộc chứa sáu cục pin lớn, bên trong hộc có khắc chữ… “phương”… nhất định là chữ “phương”.

Vừa nói tôi vừa hấp tấp lật úp cái đài, mở hộc pin ra và… cả ba người cùng rú lên khi chữ “phương” được khắc vào nhựa còn rất rõ. Hà nhìn chồng lo lắng:

- Mặt anh sao tái ngắt thế?

 Tôi quờ quạng quơ lấy ly nước của ai đó trên phản, nốc cạn rồi cất giọng hụt hơi:

- Chính anh… vẽ… râu… chị… Hai khắc tên… nó là của gia đình anh từ… hơn ba mươi năm trước.

*
*   *

Sài Gòn giải phóng được ba tháng thì bố về. Hà năm tuổi được bố chia quà là con búp bê mềm mại tóc vàng, đôi mắt xanh trong veo biết nhắm lại khi nằm xuống. Búp bê kêu oe oe như một đứa bé thật khi bị bóp vào bụng. Khuê đã mười bảy tuổi, tóc dài chấm lưng, áo trắng cổ lá sen, sung sướng, hãnh diện đứng tới tai bố. Bố hai tay ôm vai hai chị em rồi quay sang hỏi Khuê:

- Em có búp bê, còn chị thích gì nào?

Khuê nắm mấy ngón tay của bố:

- Con thích bố, bố về là con đã có tất cả.

Bố hôn tóc Khuê rồi cười sảng khoái:

- Con sẽ có cái… khó tin lắm.

Bố buông hai chị em, lôi cái hộp bìa cứng cột dây chằng chịt đặt lên bộ phản giữa nhà, thong thả tháo các nút buộc. Ngoài lớp bìa cứng là lớp nylon xanh lá cây rất dày, rồi đến quần áo lính của bố xếp chèn để chống va đập, bên trong là tấm vải dù bọc khối vuông vuông. Bố lại mở tấm vải dù.

- Ồ. Một cái đài to. Cả làng chưa ai có cái đài to thế này.

Ba mẹ con cùng reo lên. Bố chẳng kịp thay đồ, cái nón cối còn trên đầu, khăn mặt vắt trên cổ, mồ hôi đầm đìa trên mặt, ướt sũng lưng áo, xăng xái dẹp hết bao bì, phủi thật sạch mặt phản rồi khe khẽ đặt cái đài lên tấm vải dù trải rộng. Bố ấn cái nút, mặt trước máy hở ra rồi hạ xuống vuông góc với thân máy. Bố lật đật lục lọi ba lô lôi ra một chồng đĩa nằm trong những tấm bìa cứng và đặt một đĩa vào vòng tròn trong bụng máy vừa phơi ra. Bố nhấc trong hốc máy ra cái cần vuông dài cỡ gang tay đặt lên mép đĩa rồi… ấn nút. Cái đĩa kỳ diệu xoay tròn rồi bất ngờ phát ra âm nhạc thánh thót. Ba mẹ con tròn mắt kinh ngạc. Lúc này nhiều bà con trong làng nghe tin bố về cũng đến thăm khá đông, căn nhà càng huyên náo với tiếng nhạc phát ra từ cái đài lớn. Ai cũng trầm trồ, xuýt xoa, thán phục. Bố vui như chưa bao giờ được vui, hối mẹ đun nước pha trà rồi lấy ra mấy phong bánh kẹo miền Nam mời mọi người. Bà con đến nghe nhạc, nghe cải lương đến nửa đêm. Trong nhà có bao nhiêu đèn dầu, nến đều được thắp lên sáng rực. Cái đài hát không nghỉ, bố phải thay hai suất pin mới. Từ chiều đến khuya bố chẳng được ăn gì ngoài bánh kẹo với nước trà, nhưng vẫn rất vui. Khi bà con đã về hết, bố mới làm bát cơm với chén canh rau nấu cua đồng. Bố ăn ngon lành, nhìn bố Khuê thấy thương quá. Khuê lấy nón lá quạt cho bố bớt nực.

Bố ở nhà được hai tuần rồi lại vác ba lô về đơn vị. Bố đi rồi, nhà trống lạnh, ban ngày cũng chẳng còn ai đến xin nghe đài, nghe nhạc. Đêm đêm, mẹ tiết kiệm pin nên chỉ cho mở đài mười lăm phút… đỡ nhớ bố. Khuê thích nhất là đĩa cải lương “Bà chúa ăn mày”, mỗi ngày nghe một đoạn, nghe mãi nên hát lại được cả tuồng cải lương dài dặc. Học xong lớp sáu, Khuê ở nhà phụ mẹ chăm bà nội, chăm em. Bà mất, Khuê cũng trưởng thành, làm hợp tác xã nông nghiệp kiếm thêm công điểm để được chia lương thực cho gia đình. Năm 1984, Khuê lấy chồng, bố về được hai tuần lo đám cưới cho con. Bố nói với Khuê:

- Cả đời bố đánh giặc, luyện quân. Ngoài căn nhà từ đường ông bà để lại, bố mẹ chỉ có cái đài này là quý nhất, cho con như chút hồi môn để nhà chồng khỏi khinh.

Khuê giãy nảy:

- Con đi, bố cũng đi, nhà buồn lắm, mẹ với cái Hà phải có cái đài nghe cho vui.

Mẹ cũng ép Khuê, thế là Khuê đành xách đài về nhà chồng. Rồi nhà chồng lục đục, Khuê lại mang đài, mang chồng về ở với mẹ. Năm 1985, bố là trung tá trung đoàn phó hy sinh ở biên giới phía Bắc, được đưa về trên xe quân đội. Một năm sau đó mẹ bàn với Khuê:

- Con làm nông vất vả quá, hay là bán cái đài lấy tiền học may, có cái nghề đỡ cực tấm thân?

Khuê òa khóc:

- Có đi ăn mày con cũng không bán cái đài của bố.

Năm 1988, Hà đậu đại học Ngoại thương, Khuê lẳng lặng ôm cái đài với bộ đĩa đi bán để em có tiền mua bộ quần áo tươm tất lên Hà Nội nhập học. Đêm đó, Khuê về muộn, thảy ra phản xấp bạc rồi ba mẹ con ôm nhau khóc. Khuê thắp nhang, khấn:

- Ngày mai con sẽ đi buôn, bố linh thiêng phù hộ cho con kiếm được tiền chuộc cái đài về.

(Số sau đăng hết)