ĐIỀU SAU 25 NĂM MỚI KỂ (Phần 1)
Truyện ngắn của PHAN CUNG VIỆT

08/01/2014 08:31

>> ĐIỀU SAU 25 NĂM MỚI KỂ (Phần cuối)

1

Nếu một đời người là “bách niên”, cứ một trăm năm thì một phần nửa là năm mươi năm, một phần tư là hai lăm năm. Trời đất sinh ra những con số niên hạn thật lạ và dễ sợ. Những cột năm ấy, ta khóc, cười và giật mình, không phải chuyện nào cũng le te kể ngay. Tùy độ trọng, có cái sau một trăm năm. Tức là chết rồi mới kể. Có cái phải đợi con số ấy nứt đôi ra, tức năm mươi năm. Có cái nhỏ nhoi hơn, chừng sau hai lăm năm. Những chuyện tôi sắp kể ra đây chỉ thuộc loại đó, kể sau một phần tư thế kỷ.

Có những điều, những người, những vùng đất ta yêu mà không làm cách nào để trả ơn. Như tôi và vùng đất đỏ Q.T ấy (viết tắt như một mật danh) lại có cách trả ơn chẳng đâu vào đâu. Như vay toàn tiền mới, lành, lại trả toàn tiền nhỏ, rách. Nhưng như thế cũng được, miễn là đừng vô ơn. Chẳng thể nào chấp nhận sự vô ơn. Chẳng một ai chấp nhận sự vô ơn. Tôi chắc rằng sau này rôbốt (tức người máy) cũng không chấp nhận điều đó.

Minh họa của Đặng Hồng Quân
Minh họa của Đặng Hồng Quân
 2

Tôi theo chân anh bạn Thép vào chiến trường. Thép là lính, làm báo tốt. Trước vệt B52 chúng tôi chui vào hầm. Khét lẹt. Con sông gần kia ục lên một tiếng như vỡ tung, như bọc trứng khổng lồ của bà Âu Cơ vỡ ra. Tôi nói ngây thơ. Thép cười. Thép đưa bọc bánh, gói vuông vức bốn góc bằng loại giấy gói thuốc Bắc. Sợi dây len đỏ buộc rất điệu. Nhìn sợi dây, biết là của người yêu. Bấy giờ ai vào chiến trường cũng mang theo một kỷ vật của người yêu, lớn hoặc nhỏ, xem như cái bùa hộ mệnh. Lính Mỹ có lá bùa kiểu Mỹ. Chiến sỹ Việt Nam có lá bùa của Việt Nam. Bùa bằng tâm linh, khó biết được.

Tôi theo dấu chân của Thép, như một người tập đi. Thép bận áo lính, đeo xà cột để giấy bút, khẩu súng lục trễ bên hông. Thép tốt. Bước chân của Thép ngay thẳng. Con người hồi ấy không hề lừa nhau. Giá như lúc ấy dấu chân của Thép đánh lừa tôi. Những khẩu pháo nòng dài ngoẵng chĩa cả vào phía trong. Chúng trầm tư, đầy sức lực. Một loạt gầm của pháo. Tôi đang đi men đường giật mình sợ quá, người hất tung lên rồi rơi xuống như một chú nhái bén…

Ngoài cát trắng, đất này còn có hồ tiêu. Cái hương lạ nhất của chiến tranh, theo tôi là hồ tiêu bị cháy. Hương nó đã cay nồng, một vị cay riêng, đến khi nó cháy thì ôi thôi, gần như đến cát cũng phải chảy nước mắt. Tôi cho rằng những người nghiên cứu và viết về chiến tranh ở Việt Nam nên tưởng tượng cái mùi hồ tiêu bị bom thiêu cháy. Chưa hiểu, là chưa hiểu mấy về chiến tranh.

Những người con gái từ đâu chạy đến đỡ tôi dậy: “Eng, có làm sao không?”. Tiếng đẹp như tiếng chim khuyên. Tôi tái xanh mặt mũi, ngượng. Họ hiểu. Trong chiến tranh, người ta rất tinh ý trước động tác ngã xuống. Bị bom, bị đạn ngã xuống thì khác. Sợ quá, ngã gục xuống thì lại khác. Cười. Nét cười của các cô gái tinh nghịch và lạ làm sao, như nói: “Ê, cái anh lính cậu kia”. Vừa ranh mãnh, vừa dễ thương, như một buồng cau non. Điều thứ hai, nên nghiên cứu về chiến tranh ở Việt Nam. Đó là nụ cười của các cô gái trong chiến tranh.

Tôi đang choáng. Dù sao cũng phải cõng. Em tên là Huyên. Cánh áo gụ bó sát người. Ngực vồng cao. Quai súng đeo chéo, càng làm căng lên. Tôi tỉnh dần ra. Huyên đẹp quá. Thú thực, lần đầu tiên tôi gặp một người con gái như thế. Huyên ơi, eng cám ơn út Huyên nhiều lắm. Gương mặt trái xoan, rất trẻ. Trẻ thế mà tóc đã búi tròn sau gáy. Gợi sự thương cực độ. Tôi tỉnh rồi mê, “Út ơi, sao Út rứa mà lại búi tóc như bà già”. “Tóc Út dài quá, mà eng”. Tóc dài, chỉ việc quấn vào súng, hoặc tự giẫm lên khi tiếp đạn, hoặc quay máy bay B52… cũng đủ chết rồi. Theo tôi, đây là vẻ đẹp sâu thẳm của một cuộc chiến tranh.

Có hơi con gái, tôi tỉnh hẳn. Áo Huyên ướt đẫm mồ hôi, ướt hơn cả nhúng nước. Cái xu chiêng trắng cũng ướt đẫm, phô hết màu trắng ra. Tôi gục đầu vào đó, như gục đầu vào cái nền trắng của bệnh viện. Ngực Huyên tỏa ra hơi ấm nóng kỳ diệu. Đó là hơi ấm để cứu người. Nhất là thần kinh. Giá cuộc sống hiện đại sau này có những làn hơi ấm phả ra như thế. Hết chiến tranh là hết chăng. Tiếc vô chừng.

Tối đó Huyên bị trúng B52. Em nằm khuất trên xe cứu thương. Chiếc xe màu cỏ úa. Tôi chạy đến, chỉ kịp níu lấy xe. Xe vù đi. Cũng ngay tối ấy, Huyên chết.

Bạn Thép của tôi yêu và lấy một nữ họa sĩ tên là Thanh, người đã trao gói bánh và buộc sợi dây len đỏ. Thanh không đẹp, thấp như chiếc nấm, nhưng tốt. Họ sinh được hai người con trai. Thép tốt. Thanh tốt. Vậy mà về sau họ bỏ nhau. Hình như số người tốt mà bỏ nhau cũng khá nhiều. Có thể tình yêu sống dai nhờ cái xấu và chết ngay vì cái tốt.

3

Tôi đi vào chủ đề câu chuyện. Và từ phần này tôi không đả động gì đến chiến tranh, bom đạn nữa. Đúng hơn, tôi viết về một loại bom đạn khác, sát thương mạnh, lạ hơn. Bom đạn trong nhân tính của con người.

Tôi đặt ba lô đầy bụi cỏ, mắt nhìn những cái hầm kèo ngây thơ, ngơ ngác. Người ta đã bảo: “Họp”. Sau chiến tranh là họp. Khuất sau những mái nhà lá kín đáo là những khung hầm chữ A. Từ cửa những hầm chữ A, dẫn vào ngách các địa đạo: địa đạo có hình chữ gì thì đến trời cũng khó biết được.

Nhìn sâu vào, trong hầm chữ A lớn có ngọn đuốc lồ ô. Đó là đèn, khói cay xè. Tầng đầu của địa đạo là hai cây tre bắc dọc hai bên. Đó là ghế họp. Tối nay họp kiểm điểm quan hệ bất chính của anh Rệ và chị Bương. Địa đạo tối quá, người ta cắm dãy hương để chủ khách biết đường mà tìm chỗ ngồi.

Vùng đất khốc liệt này là một khu. Anh Rệ là bí thư Đoàn. Chị Bương là phó. Cặp này quan hệ trai gái bất chính dưới địa đạo. Bị truất quyền. Giờ cặp mới lên thay là anh Lịch và chị Tại.

Đó là hai cặp đối nghịch. Rệ gầy tọp, duy đôi mắt sáng. Bương mặt hồng, tóc dài, có đôi gò má cao. Bí thư mới là Lịch thì trẻ, mới từ xã cất lên, người to cao, mát mẻ, đầu húi cua. Cái mới bao giờ cũng nghiêm chỉnh. Tại thì lại gầy quắt, tóc mềm, duy đôi mắt thì hiền và sáng. Cuộc họp tối, đã kéo sang ngày thứ ba, có cấp trên đến dự. Khách trung ương là tôi, như vai dự thính, quan sát viên.

Rệ quê ở xã điểm T. lấy vợ sớm, đã có bốn con. Bương chưa con, chồng bộ đội, tận chiến trường xa nữa. Rệ làm bí thư đã lâu. Đó là một bí thư trụ được trong chiến tranh. Bương cũng vậy. Trong bóng đuốc lồ ô cay xè (vì sợ địch phát hiện), mảnh dù che kín lối vào, bí thư mới là Lịch còn nhanh nhảu bảo Tại, mỗi người một bên, chặn hai ca tút đạn trên hai mép mảnh dù cho chắc. Cuộc họp bắt đầu. Như điểm danh. “Eng Rệ có mặt chưa?”. “Báo cáo: có”. “Chị Bương?”. “Báo cáo: có”. Không dùng từ đồng chí nữa.

Giọng cấp trên gắt: “Các đồng chí, chương trình kiểm điểm hai anh chị Rệ và Bương tiếp tục. Dù chiến trường khẩn trương, nhưng đây là vấn đề phẩm chất đạo đức cách mạng, phải làm cho ra nhẽ. Tiếp tục đọc bản kiểm điểm mới. Sau khi tập thể đã phân tích tối qua…” Tiếng im thít, không nghe cả tiếng mọt gặm trong hầm tre chữ A, sự im lặng kỳ lạ trong chiến tranh. Rệ đọc trước, giọng khô đặc, trong tiếng ho húng hắng. Tôi nhìn qua ánh đèn lồ ô, nghĩ lung tung. Nghĩ như một nhà tâm lý học trẻ tuổi. Tình yêu là gì mà nó kỳ lạ vậy. Tình dục là gì mà nó kỳ lạ vậy. Bom đạn ác liệt đến thế. Trong khi anh chàng Rệ thân tàn ma dại, đã bốn con, người lại như khỉ. Vậy mà Rệ đã không gìn giữ được chức bí thư và con đường danh vọng của mình. Rệ chủ động làm tình với Bương nhiều lần, ngay dưới địa đạo.

Có tiếng khóc tức tưởi. Đó là Bương. Tôi hiểu tiếng khóc ấy. Mấy lần Bương kho nồi cá biển rất ngon cho tôi ăn, tôi hiểu. Cấp trên: “Đừng khóc. Phải hổ thẹn với xương máu của đồng đội mình”. Một loạt pháo địch bắn sang gầm trên hầm, át tiếng khóc đi. Trong cái không may, có cái may. Con quỷ tình dục vốn thù oán con đường danh vọng, Rệ và Bương đã không hay biết điều ấy.

Đến lượt chánh án phiên tòa kín, tức cặp lãnh đạo mới: hai đồng chí Lịch (bí thư) và Tại (phó) phát biểu ý kiến. Lịch cao lớn, đứng thẳng dậy. Anh cao giọng nói về phẩm chất, về kỷ luật, về vai trò đầu tầu gương mẫu. Anh quy hết tội nặng. Tại cũng đứng dậy, bổ sung về phẩm chất của người phụ nữ mới. Giọng họ sang sảng.
Tôi bần thần, chỉ nghĩ đến những cảnh ngộ chiến tranh. Chồng xa vợ, vợ xa chồng, cái chết gần kề, cơ quan sơ tán cả, chỉ có lãnh đạo ở lại với nhau. Gió nam thoảng gợi. Hầm chữ A và địa đạo vắng tanh. Hai người ở với nhau hàng tháng như vậy. Đó là hai người đàn ông và đàn bà. Một lần nữa, cả Mỹ và Việt Nam, nên nghiên cứu về chiến tranh ở góc độ hiểm hóc này. Đó là thứ siêu bom đạn, có sức tàn phá mạnh hơn bom đạn.

4

Tôi đi sâu vào ở với lính hàng tháng trời trong lèn đá sâu Trường Sơn. Buồn cười, nơi đây cũng có đủ loại hang, cả hang Trinh Nữ. Lính còn đặt thêm các hang khác bằng cách của lính: hang Tử Thần, hang Phong Lan, hang Phong Thư. Tử Thần là bom đạn dội suốt ngày. Phong Lan là nhiều phong lan rừng. Cái hang Phong Thư thì tuyệt, chỉ có lính Trường Sơn mới nghĩ ra cái tên ấy. Lính tìm lên đấy, đọc thư nhà cho nhau nghe và viết thư đi. “Mẹ của chúng con. Chúng con chỉ là một bầy con trai của mẹ. Ở đây, không có một bóng người tóc dài nào, mẹ ạ”. Những dòng chữ ngây thơ, trong suốt, đọc đến chảy nước mắt. Cả Mỹ và Việt Nam hãy nghiên cứu thêm một điều về chiến tranh. Đúng hơn là về đàn ông. Đúng nữa, về con người. Hàng trăm hàng nghìn người trai mới lớn ở với nhau, nhưng họ trong sáng làm sao. Họ có khát bóng dáng đàn bà, dù chỉ là một dấu chân, một suối tóc. Ở đó, người ta có thể dựng tượng đài cao trên núi, với một dòng chữ bình thường: tượng cô gái. Vậy thôi. Như thế chứng tỏ họ là những con người với sinh lý bình thường, không hóa đá. Nhưng lạ. Trong khi đâu đó bây giờ nhan nhản đồng tính luyến ái, họ không hề, khi tắm kỳ cọ cho nhau, thậm chí khi liệm thi thể bạn… Chỉ là cái hơi dương thịnh ấm áp, hòa quyện, ma lực, mạnh hơn núi đá. Chỗ này là điểm cực sáng của người đàn ông.

(Số sau đăng hết)