Bàn về điều tra của Viện Kiểm sát
theo Hiến pháp (sửa đổi) năm 2013

Gs. Ts Trần Ngọc Đường 19/12/2013 08:46

Để chuẩn bị cho việc thi hành Hiến pháp (sửa đổi) QH Khóa XIII vừa thông qua tại Kỳ họp thứ Sáu, có hiệu lực từ ngày 1.1.2014, các cơ quan có trách nhiệm đang tiến hành nghiên cứu, sửa đổi các luật về tổ chức bộ máy Nhà nước, trong đó có Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Đóng góp ý kiến vào việc sửa đổi Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, trước hết xin bàn về điều tra của Viện Kiểm sát theo Hiến pháp (sửa đổi) này.

1. Vị trí, vai trò và chức năng của Viện kiểm sát nhân dân qua các bản Hiến pháp ở nước ta

Theo Điều 107 Hiến pháp năm 2013 thì Viện Kiểm sát nhân dân nước ta có vị trí là một thiết chế độc lập trong tổ chức quyền lực nhà nước.

Cũng theo Điều 107 Hiến pháp năm 2013 thì Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Theo đó Viện kiểm sát có vai trò bảo vệ pháp luật, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN bảo vệ quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

So với Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 trước khi sửa đổi năm 2001; có thể rút ra một số nhận xét về vị trí và vai trò của Viện kiểm sát quy định trong Hiến pháp năm 2013 hiện hành như sau:

Một là, Theo Hiến pháp năm 1946 cơ quan tư pháp là các tòa án tối cao, các tòa án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp. Theo đó, cơ quan công tố được tổ chức trong hệ thống tòa án ở hai cấp: Tòa án đệ nhị cấp và tòa thượng thẩm. Thẩm quyền của công tố viên chủ yếu là truy tố tội phạm ra tòa. Công tố viên được gọi là thẩm phán buộc tội có vị trí độc lập với thẩm phán xét xử. Đến năm 1959, Viện kiểm sát nhân dân với tư cách là một thiết chế có vị trí, vai trò, chức năng độc lập được quy định trong Hiến pháp năm 1959. Điều 105 quy định: Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hòa kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công dân. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi do Luật định (đ105). Hiến pháp năm 1980, quy định: Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước CHXHCN Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ và cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, các cơ quan thuộc chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất…” (đ137). Và Hiến pháp hiện hành – Hiến pháp năm 2013 quy định: Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp (đ107).

Theo các quy định nói trên, thì từ Hiến pháp năm 1959 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân là một thiết chế có vị trí độc lập trong tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta, nhưng nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân có sự thay đổi.

Hiện nay, theo Hiến pháp năm 2013, Viện kiểm sát nhân dân vẫn giữ nguyên thẩm quyền: “Thực hành  quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”, và đồng thời xác định Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp.

Việc quy định Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền kiểm soát hoạt động tư pháp và xác định Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp trong Hiến pháp năm 2013 có mâu thuẫn không? Và nên hiểu như thế nào? Bởi vì, trong nhà nước pháp quyền, quyền tư pháp là một quyền có tính độc lập tương đối so với các quyền lập pháp và hành pháp. Ở các nhà nước dân chủ và pháp quyền thường không có một thiết chế hiến định độc lập nào thực hành việc kiểm sát hoạt động xét xử (tập  trung nhất của hoạt động tư pháp). Bởi nguyên tắc phổ quát của hoạt động tư pháp (xét xử) trong nhà nước pháp quyền là xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Việc kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động xét xử chủ yếu được thực hiện bằng các thủ tục tố tụng rất chặt chẽ về mối quan hệ chế ước lẫn nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và bằng quyền năng của những người tham gia tố tụng nhất là từ các bị cáo, đương sự trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong mối quan hệ pháp luật với tòa án là thiết chế thực hiện quyền tư pháp. Như vậy, kiểm sát các hoạt động tư pháp quy định trong Hiến pháp năm 2013, theo chúng tôi chủ yếu được thực hiện qua kiểm soát hoạt động điều tra, qua thực hành quyền công tố và qua kiểm sát hoạt động thi hành án.

Thực hành quyền công tố về bản chất đó chính là kiểm soát hoạt động xét xử của Tòa án. Bởi, quyền công tố là quyền đưa một tội phạm từ khi xảy ra đến khi kết thúc bằng một bản án có hiệu lực pháp luật. Hay nói cách đơn giản quyền công tố là quyền buộc tội đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Muốn thực hiện quyền này Viện kiểm sát phải căn cứ vào pháp luật để kiểm tra, kiểm sát các hoạt động từ điều tra đến giai đoạn xét xử. Như vậy, để thực hành được quyền công tố, Viện kiểm sát phải kiểm sát hoạt động tư pháp trong hai giai đoạn cơ bản của tố tụng tư pháp, đó là kiểm soát hoạt động điều tra trong giai đoạn điều tra của các cơ quan có thẩm quyền điều tra và trong giai đoạn xét xử của tòa án bằng việc thực hành quyền công tố. Kiểm soát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố trong hai giai đoạn này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tuy nhiên, kiểm sát điều tra, theo chúng tôi có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hành quyền công tố (kiểm sát xét xử). Quá trình điều tra nếu được kiểm sát chặt chẽ, bảo đảm đúng pháp luật thì chắc chắn việc thực hành công tố sẽ đúng đắn.

Từ sự phân tích nói trên, theo chúng tôi, kiểm sát các hoạt động tư pháp quy định trong Hiến pháp, đó chính là và chủ yếu là kiểm sát điều tra. Còn thực hành quyền công tố đó chính là trên cơ sở tiến hành kiểm sát hoạt động điều tra mà Viện kiểm sát có quyết định truy tố hay không truy tố bị can ra tòa và nếu truy tố ra Tòa thì giữ quyền buộc tội tại Tòa (thực hành quyền công tố).

2. Với tư cách là một thiết chế độc lập từ khi ra đời cho đến nay, thẩm quyền của cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát đã trải qua các thay đổi sau đây:

Một là, Sau khi ban hành Hiến pháp năm 1959, Viện kiểm sát nhân dân với tư cách là một thiết chế độc lập trong tổ chức bộ máy nhà nước ra đời, pháp lệnh về tổ chức Viện kiểm sát ngày 18.4.1962 có quy định thành lập vụ điều tra thẩm cứu trong tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Theo các quy định pháp luật lúc bấy giờ, tuy cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao có vụ điều tra thẩm cứu nhưng thẩm quyền của Viện kiểm sát vẫn chủ yếu là kiểm sát điều tra. Chỉ điều tra “một số loại phạm pháp mà kẻ phạm pháp và hành vi phạm pháp đã tương đối rõ” hoặc do “Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên giao và các vụ án Viện trưởng Viện kiểm sát thấy cần thiết” (với quan niệm trường hợp cần thiết là do yêu cầu chính trị và cấp ủy giao hoặc xét thấy vụ án mà nếu giao cơ quan công an điều tra thì không được khách quan, toàn diện, cán bộ điều tra vi phạm pháp luật tới mức nếu họ tiếp tục điều tra sẽ dẫn đến lọt tội phạm, oan sai và dư luận xã hội không đồng tình). 

Hai là, trong thời kỳ năm 1988-2003 có một số thay đổi về thẩm quyền điều tra của các cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát được quy định trong Bộ Luật tố tụng hình sự đầu tiên ban hành vào năm 1988.

Đến năm 2000 thực hiện chủ trương cải cách tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp theo thông báo số 136/TB-TW ngày 25.1.1996 của Bộ Chính trị cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao được tăng cường, còn các phòng điều tra của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh chỉ để lại ở những nơi xét thấy cần thiết. Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân chỉ tập trung điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ của cơ quan tư pháp. Theo đó chỉ còn 10 Viện kiểm sát tỉnh thành là còn có phòng điều tra.

Ba là, thời kỳ thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 không thực hành chức năng kiểm sát chung. Trong thời kỳ này, cơ quan điều tra của Viện kiểm sát chỉ còn tổ chức ở Viện Kiểm sát nhân dân tối cao với thẩm quyền điều tra một số loại tội phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp.

Từ việc thay đổi thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân qua 3 thời kỳ nói trên có thể rút ra một số nhận xét là: cả trong 3 thời kỳ, thẩm quyền điều tra của Viện kiểm sát nhân dân luôn luôn gắn liền với nhiệm vụ kiểm sát hoạt động điều tra, bảo đảm cho điều tra đúng pháp luật.

3. Từ các quy định của Hiến pháp về nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp và từ thực tiễn tổ chức và hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta qua các thời kỳ, và từ yêu cầu cải cách tư pháp, chúng tôi có một số suy nghĩ sau đây:

Một là, mặc dầu Hiến pháp hiện hành không quy định Viện kiểm sát có chức năng điều tra, nhưng theo chúng tôi toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát đều có tính chất của hoạt động điều tra. Việc điều tra của Viện kiểm sát khác với điều tra của các cơ quan có thẩm quyền điều tra ở hai điểm sau:

Thứ nhất, điều tra của Viện kiểm sát mang tính chất kiểm sát và chỉ đạo điều tra đối với các cơ quan có thẩm quyền trực tiếp điều tra; và được tiến hành ngay trong quá trình kiểm sát điều tra và thực hành quyền công tố để cho các quá trình đó diễn ra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Như vậy, điều tra của Viện kiểm sát về phương diện này có vai trò phục vụ và hỗ trợ đắc lực cho việc thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hiện quyền công tố.

Thứ hai, thông qua kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố phát hiện những sai phạm nghiêm trọng của những người có thẩm quyền trong các quan hệ tố tụng (điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, thư ký tòa án...) thì cơ quan điều tra của Viện kiểm sát phải tiến hành để thực hiện đến cùng chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp.

Từ hai phương diện điều tra của Viện kiểm sát nói trên, có thể thấy rằng điều tra của Viện kiểm sát xét về tính chất và nội dung khác với điều tra của cơ quan có thẩm quyền điều tra theo tố tụng.

Hai là, từ yêu cầu cải cách tư pháp theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vấn đề đặt ra là công lý và công bằng, quyền con người và quyền công dân được tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt nhất tại các phiên tòa, làm cho Hiến pháp và luật được đề cao trong hoạt động tư pháp. Điều đó đòi hỏi điều tra của Viện kiểm sát phải được coi trọng trong việc thực hiện cả hai chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố. Có như vậy, Viện kiểm sát mới kiểm tra và kiểm sát được quá trình điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luât; mới thực hành được nguyên tắc tranh tụng trước phiên tòa, mới thực hiện được quyền công tố có hiệu quả.

Ba là, từ quan niệm về điều tra của Viện kiểm sát nói trên, chúng tôi đề nghị tổ chức điều tra của Viện kiểm sát theo mô hình sau:

Điều tra của Viện kiểm sát được tổ chức xuyên suốt trong các cơ quan có thẩm quyền kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố, đặc biệt là các cơ quan thực hiện nhiệm vụ kiểm sát điều tra. Điều tra này mang tính chất kiểm tra, kiểm sát quá trình điều tra của các cơ quan trực tiếp làm công tác điều tra theo thẩm quyền tố tụng; phục vụ trực tiếp cho việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp và chức năng công tố.

Điều tra của Viện kiểm sát được tổ chức chuyên trách trong bộ máy của Viện kiểm sát tối cao và Viện kiểm sát tỉnh, thành trực thuộc Trung ương để trực tiếp điều tra một số loại tội hoạt động tư pháp như trên đã viết nhằm phòng, chống các tội phạm có thể phát sinh trong các giai đoạn của quá trình tố tụng và trong hoạt động của cán bộ các cơ quan tư pháp.

<i>Gs. Ts </i>Trần Ngọc Đường