Nghệ thuật thứ bảy ở Hà Nội xưa
Năm 1895, nghệ thuật thứ bảy ra đời tại Pháp với những cuốn phim ghi lại cảnh sống thực dài chừng 1 phút. 10 năm sau đó, điện ảnh chỉ là những phim tài liệu ngắn, cho đến sau Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất, người ta mới bắt đầu làm phim truyện. Ngay sau đó, Hà Nội đã có rạp chiếu bóng (năm 1920). Hãng Pathé chuyên kinh doanh phim ảnh và máy chiếu đã cho xây dựng một rạp chiếu bóng trên bãi cỏ bên cạnh đền Bà Kiệu, nhìn chếch sang đền Ngọc Sơn. Đó là rạp chiếu bóng (phim) cổ nhất của Hà Nội.

Thời ấy, người Hà Nội say mê cải lương, tuồng, chèo, chứ chưa ham chuộng điện ảnh. Phim thời đó chưa có tiếng, chỉ có phụ đề chữ Pháp. Tuy vậy, người ta cũng muốn xem phim một lần để được thấy cảnh người đi, tàu chạy, ngựa phi... trên màn ảnh. Từ Pháp, rồi cả Âu - Mỹ, nghệ thuật thứ bảy phát triển rất nhanh. Ở Hà Nội cũng vậy, trên báo Trung Bắc Tân văn ngày 9.6.1923, ông Nguyễn Văn Vĩnh đã nêu ý kiến về việc làm phim Kim Vân Kiều. Ông viết: “nếu chúng ta làm ra được phim hay... ai nấy phải khen văn chương, khen tư tưởng Việt Nam, có phải ta cũng làm được việc quảng cáo cho nước ta với toàn cầu...”. Trước đó, Hãng Phim và Chiếu bóng Đông Dương (Indochine Films et Cinéma) đã làm nhiều phim tài liệu, đến giữa năm 1923 thì bắt đầu thực hiện phim truyện Kim Vân Kiều. Trong tác phẩm Nhớ và ghi, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã viết về sự kiện điện ảnh này: “các vai đóng đều là đào, kép rạp tuồng Quảng Lạc. Bảy Tắc đóng vai Hoạn Thư, Tư Lê đóng vai ông Phú. Phong cảnh là cảnh thật chung quanh Hà Nội. Sân chùa Láng là dinh Từ Hải, cổng Sanh làng Thọ là cửa vào nhà Tú Bà, bãi tha ma làng Yên Thái là chỗ Kiều viếng mộ Đạm Tiên...”. Như vậy, có thể ghi nhận phim Kim Vân Kiều là bộ phim truyện đầu tiên của Việt Nam, công chiếu năm 1924.
Năm 1925, một thương gia Hà Nội hợp tác với một thương gia người Hoa mở rạp Family tại phố Hàng Buồm (nay không còn). Phố này toàn nhà ống, nên họ phải mua hai nhà cạnh nhau, rồi phá tường thông thành một nhà. Phía ngoài, một mé xây quầy bán vé, mé kia là cửa vào rạp, đi qua 26 hàng ghế tựa ghi từ A đến Z, tới sát màn ảnh. Phía sau màn ảnh kê thêm 10 hàng ghế băng. Vé ngồi ở ghế băng, xem mặt trái màn ảnh, giá chỉ 3 xu, nên nhiều trẻ con ngồi ở đó. Hình ảnh ngược, kéo đàn, cầm cương ngựa… đều tay trái; cảnh duyệt binh oai nghiêm, như đều cầm súng tay trái, ngồ ngộ, khiến nhiều khi người xem cười rộ lên. Dòng chữ phụ đề ngược, là chữ Pháp, có xuôi cũng không đọc được, nên chả sao. Sàn rạp không có độ dốc, màn ảnh treo cao, để không bị người trước che lấp, người nào cũng phải ngửa cổ lên nhìn, xem xong phim ai nấy đều mỏi cổ, nhưng rất vui...
Gắn bó với xem phim ở rạp Family còn có chiếc xe màu vàng nhạt của bác Ba bán bánh tây (bánh mỳ). Ngày nào cũng vậy, trước giờ chiếu dăm tiếng đồng hồ, bác Ba đã đẩy xe đến trước rạp Family. Chiếc tủ kính trên xe, một ngăn xếp những chiếc bánh vàng rộm, một ngăn để tảng chả quế dày súc, thơm ứa nước miếng. Bọn trẻ bâu quanh, bác Ba thái chả kẹp vào bánh, còn dấm ớt, tiêu, muối thì tùy khách. Hai xu hoặc ba xu một chiếc bánh giòn tan, thơm phức. Không chỉ người xem phim, dân các phố gần đó cũng quen với bánh tây bác Ba. Gần mười năm sau, rạp Family đóng cửa, xe bánh bác Ba không còn, người ta vẫn nhắc nhớ, như một kỷ niệm của một thời.
Khi không còn rạp Family, người Hà Nội đã có rạp Olympic của Ông tây Coóc ở phố Hàng Da (ông người đảo Corse thuộc Pháp, nên người ta gọi như vậy), nay là rạp Hồng Hà. Vào những năm 30 thế kỷ trước đã hết thời phim câm. Bộ phim có tiếng nói đầu tiên chiếu ở Hà Nội là Phía tây không có gì lạ, dựng theo tiểu thuyết của nhà văn Erich Remarque, gây ấn tượng mạnh. Xem phim mà như được ra chiến trận, tiếng súng nổ, tiếng lính Đức lội bì bõm trong bùn nước... Người Hà Nội từ say mê cải lương, tuồng, chèo, đã mê cả kịch nói, và rất mê cinéma, nhiều rạp mọc lên thêm. Ngoài Olimpia, còn có rạp Tonkinoa ở phố Hàng Quạt, là hai rạp bình dân, rất đông trẻ con tới xem, nhất là những buổi chiếu ban ngày, giá rẻ. Chiếu ở các rạp bình dân thường là phim về cao bồi, những người hùng phi ngựa, quăng thòng lọng rất tài, bắn súng thiện nghệ. Những phim vua hề Sáclô (Charles Chaplin) luôn cuốn hút người xem... Nghệ thuật thứ bảy đã thực sự lên ngôi tại Việt Nam, ở Hà Nội!
Có lẽ, như ông Nguyễn Văn Vĩnh đã viết về việc làm phim Kim Vân Kiều trên báo Trung Bắc tân văn từ giữa năm 1923 là “... làm một việc thí nghiệm”. Làm bộ phim ấy như là một cuộc thử sức của các nghệ sỹ Việt Nam khi bước vào nghệ thuật thứ bảy, loại hình nghệ thuật còn rất mới mẻ cả đối với các nước Âu - Mỹ. Thử sức ban đầu đó đã gây ấn tượng mạnh trong đời sống văn hóa đương thời. Đó cũng là bài học lớn cho các nghệ sĩ Việt Nam, để rồi, 14 năm sau, 1938, nghệ sỹ tài danh Đàm Quang Thiện đã đem đoàn làm phim Việt Nam sang Hong Kong thực hiện bộ phim Cánh đồng ma, tạo nên thành công đáng kể cho điện ảnh Việt Nam ngay trên xứ người, bán được cả phim cho người nước ngoài!
Năm 1939, Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai bùng nổ, Việt Nam không ngoài vùng ảnh hưởng, rồi Cách mạng Tháng Tám, rồi Hà Nội hơn 60 ngày đêm khói lửa, rồi kháng chiến trường kỳ... Và chính trong kháng chiến chống xâm lược, nghệ thuật thứ bảy của Việt Nam đã bước tới một giai đoạn khác, bắt đầu tạo dựng nền điện ảnh cách mạng...