Vụ việc Nicotex Thanh Thái nhìn từ góc độ pháp luật môi trường

Tuyết Hoa 05/10/2013 08:34

Với sự vào cuộc quyết liệt của các cấp, ngành chức năng, vụ việc gây ô nhiễm môi trường của Công ty cổ phần Nicotex Thanh Thái, tỉnh Thanh Hóa đã bước đầu được làm rõ. Song, điều mà dư luận quan tâm nhất là tại sao vi phạm đã kéo dài nhiều năm nhưng tới nay mới bị phát hiện và phải chăng những khoảng trống về pháp luật cũng là nguyên nhân dẫn tới vụ việc này?

Khó phát hiện do thiếu quy định

Thực tế cho thấy, hành vi chôn lấp trái phép chất thải độc hại rất khó bị phát hiện bởi thường diễn ra có tính thời điểm, không để lại dấu vết và phải tới nhiều năm sau, khi các chất độc hại ngấm vào lòng đất gây bệnh cho người dân xung quanh khu vực, cơ quan chức năng mới tìm ra. Bên cạnh đó, thủ tục thanh tra phức tạp cũng gây khó khăn cho hoạt động quản lý, phát hiện và xử lý vi phạm. Theo Nghị định 117/2009/NĐ-CP, các đoàn thanh tra, kiểm tra định kỳ phải thông báo cho đối tượng biết ít nhất là trước 3 ngày, phải có thủ tục công bố quyết định và chỉ làm việc trong giờ hành chính.

“Quy định này đã tạo điều kiện cho đối tượng bị thanh tra có thời gian đối phó như tạm ngừng hành vi vi phạm, vận chuyển toàn bộ chất thải đang lưu giữ chôn lấp vào ban đêm hay ngoài giờ hành chính” - Đại diện Thanh tra Tổng cục Môi trường Trần Thị Thu Hường nhấn mạnh.

Thuốc trừ sâu được tìm thấy trong khuôn viên nhà máy
Thuốc trừ sâu được tìm thấy trong khuôn viên nhà máy
Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) 2005 chưa có quy định cụ thể về việc tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm nước dưới đất phải có trách nhiệm xử lý cũng là khoảng trống làm phát sinh nhiều vi phạm như vụ Nicotex thời gian qua. Hơn nữa, quy định kho chứa hóa chất, cơ sở xử lý, khu chôn lấp chất thải nguy hại phải được xây dựng bảo đảm an toàn kỹ thuật, có biện pháp ngăn cách hóa chất độc hại ngấm vào nguồn nước dưới đất còn thiếu cụ thể, dễ tạo điều kiện cho doanh nghiệp lách luật.

“Quy định chung chung như vậy thì những công ty như Nicotex Thanh Thái có thể dễ dàng trốn tránh được. Không rõ thế nào là bảo đảm an toàn kỹ thuật, doanh nghiệp sẽ dựa vào đó mà thực hiện qua loa. Pháp luật phải chặt chẽ, chi tiết, tránh tình trạng có quy định rồi nhưng khó xử lý trên thực tiễn” - Ủy viên Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Trần Thị Quốc Khánh nhấn mạnh.

Một trong những vi phạm của Nicotex Thanh Thái là không phân loại chất thải nguy hại, để lẫn chất thải nguy hại khác loại với nhau hoặc với chất thải khác. Song, nếu nhìn vào các quy định pháp luật có thể thấy, Luật BVMT 2005 mới chỉ xác định các tổ chức, cá nhân không được để lẫn chất thải nguy hại với chất thải thông thường chứ chưa tính tới trường hợp nếu chất thải thông thường trộn lẫn với chất thải nguy hại, không tách bạch được thì phải quản lý theo quy định của chất thải nguy hại.

Mặt khác, loại chất thải mà Nicotex Thanh Thái chôn lấp là thuốc trừ sâu hết hạn, việc thu hồi sản phẩm này để thải bỏ là vô cùng cần thiết. Mặc dù theo khoản 1, Điều 67 Luật BVMT 2005, chủ cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ phải có trách nhiệm thu hồi sản phẩm thải bỏ như thuốc, hóa chất sử dụng trong nông nghiệp, thủy sản nhưng nội dung này mới chỉ được cụ thể hóa tại Điều 21 của Nghị định 80/2006/NĐ-CP. Chính vì thiếu quy định hướng dẫn nên việc thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ hầu như chưa được triển khai trên thực tiễn.

Hay thiếu hiệu quả

Qua vụ việc Nicotex Thanh Thái, không thể phủ nhận sự thiếu hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về BVMT ở địa phương. Vấn đề đánh giá tác động môi trường (ĐTM) một lần nữa lại được đặt ra khi việc kiểm tra, giám sát thực hiện báo cáo ĐTM của cơ quan chức năng chưa triệt để, năm nào cũng kiểm tra nhưng lại chỉ dựa trên báo cáo do doanh nghiệp đưa ra. Trong khi, pháp luật chỉ rõ, sử dụng chất độc hại nguy hiểm phải có báo cáo tác động môi trường và phải được phê duyệt, giám sát từ 2 đến 4 lần/năm.

Bên cạnh đó, theo cơ quan chức năng tại đây, báo cáo ĐTM của Nicotex Thanh Thái có chỉ số rõ ràng về tác động môi trường do có đội ngũ chuyên môn phân tích về mẫu đất, mẫu nước. Trên thực tế, khi xây dựng báo cáo ĐTM, các doanh nghiệp thường thuê tổ chức tư vấn nhưng tổ chức này lại không chịu trách nhiệm về thông tin trong báo cáo mà chỉ chịu trách nhiệm trước doanh nghiệp là người có quan hệ hợp đồng tư vấn. Báo cáo ĐTM do tổ chức tư vấn lập mang tính chất tham khảo là chủ yếu, doanh nghiệp có thể không sử dụng báo cáo này hoặc sử dụng nhưng bổ sung, chỉnh sửa. Do đó, việc ngành chức năng căn cứ vào chuyên môn của tổ chức tư vấn để thẩm định, đánh giá báo cáo ĐTM là không hợp lý.

Vi phạm của doanh nghiệp này là “không thực hiện đầy đủ nội dung trong báo cáo ĐTM đã được phê duyệt” trong khi đó, Nicotex là công ty từng bị phạt vì không chấp hành đầy đủ cam kết BVMT. Câu hỏi đặt ra là vì sao ngành chức năng lại không lấy mẫu đất, nước để phân tích, kiểm chứng; phải cho tới khi báo chí lên tiếng mới phát hiện hành vi vi phạm. Trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện báo cáo ĐTM của cơ quan có thẩm quyền như thế nào cũng là băn khoăn của nhiều chuyên gia. 

 “Việc thông tin được đưa ra trong báo cáo ĐTM ít được các cơ quan chức năng kiểm định, kiểm chứng độc lập là một thực tế. Bởi theo quy định pháp luật, phản biện, kiểm chứng độc lập chỉ được thực hiện khi cần thiết mà không phải là yêu cầu bắt buộc. Trách nhiệm của hội đồng thẩm định chưa được quy định rõ ràng, công tác hậu thẩm định chưa được quan tâm, chú trọng là hệ quả dẫn tới việc nhiều doanh nghiệp thực hiện không đúng báo cáo ĐTM nhưng không bị phát hiện, xử lý” - một chuyên gia môi trường nhấn mạnh.

Tuyết Hoa