Bảo đảm cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu
Đấu được nhìn nhận là hình thức lựa chọn người cung cấp hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ, theo đó người tổ chức mời thầu sử dụng cơ chế cạnh tranh bằng cách đưa ra gói thầu để các bên dự thầu cạnh tranh nhau về giá, về chất lượng… với mong muốn có thể lựa chọn được người cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ có chất lượng tốt nhất và mức giá rẻ nhất. Tuy nhiên, trong thời gian qua, hoạt động đấu thầu ở Việt Nam phát sinh các tiêu cực và hạn chế.
Tình trạng dàn dựng “quân xanh, quân đỏ”, trúng thầu bằng mọi giá sau đó điều chỉnh giá gói thầu… còn tương đối phổ biến. Tình trạng trên không những làm thất thoát hàng tỷ đồng của Nhà nước mà còn gây dư luận không tốt trong nhân dân. Làm sao bảo đảm tính cạnh tranh lành mạnh, khách quan trong hoạt động đấu thầu là một trong những yêu cầu đặt ra trong quá trình sửa đổi Luật Đấu thầu.
Theo đánh giá của ĐBQH Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị), dự thảo Luật Đấu thầu (sửa đổi) lần này thực sự tiếp thu tương đối nhiều các ý kiến đóng góp của các ĐBQH và cơ quan chuyên môn, các chuyên gia theo hướng có chọn lọc một cách hợp lý tích cực. Vấn đề bảo đảm tính cạnh tranh minh bạch, khách quan trong hoạt động đấu thầu được quy định cụ thể tại Điều 6 của dự thảo Luật. Đồng thời nội dung này đã được hướng dẫn tại dự thảo nghị định hướng dẫn thi hành Luật đấu thầu về lựa chọn nhà thầu. Tuy nhiên quy định này dự thảo luật và nghị định hướng dẫn vẫn chưa giải quyết được tận gốc rễ, chưa bảo đảm bao quát được hết các vướng mắc trên thực tế việc bảo đảm tính cạnh tranh khách quan trong hoạt động đấu thầu đặc biệt tại các gói thầu sử dụng vốn nhà nước.
Cụ thể, quy định độc lập về tính pháp lý và độc lập về tài chính chưa có giải thích định nghĩa đầy đủ trong dự thảo luật nên cũng không rõ ràng và có thể hiểu theo nhiều hướng khác nhau. Dự thảo nghị định hướng dẫn Điều 1, Điều 2 của dự thảo nghị định cũng hướng dẫn khá sơ sài về nội dung này. Bên cạnh đó, việc quy định độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính vẫn chưa bảo đảm được tính khách quan, tính cạnh tranh vì chưa loại trừ được nhiều trường hợp tác động khác. Ví dụ tác động của trường hợp người có liên quan theo quy định tại Khoản 17, Điều 4 Luật Doanh nghiệp, người có liên quan theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Chứng khoán với trường hợp có người có liên quan, các tổ chức, cá nhân đó đều độc lập về pháp lý và tài chính nhưng lại có khả năng tác động, ảnh hưởng hoặc chi phối trong các giao dịch nhất định. Do đó, việc quy định như hiện tại vẫn không bảo đảm tính cạnh tranh trong đấu thầu.
Còn theo ĐBQH Mai Thị Ánh Tuyết (An Giang), tại Khoản d Điều 6 quy định nhà thầu tham gia dự thầu phải độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính và các nhà thầu khác cùng tham dự thầu trong gói thầu đối với đấu thầu hạn chế. Thực tế cho thấy, để tránh tình trạng liên thông, đạp chân nhau trong hoạt động đấu thầu, việc quy định độc lập về pháp lý và tài chính giữa các bên có liên quan rất cần thiết. Do đó nếu chỉ quy định nhà thầu tham dự phải độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính chỉ đối với nhà thầu khác cùng tham dự thầu là chưa bao hàm hết các bên có liên quan.
Trong dự thảo nghị định hướng dẫn chỉ quy định tính độc lập giữa nhà thầu với nhà thầu, giữa nhà thầu với bên mời thầu, chủ đầu tư, chưa quy định tính độc lập về pháp lý, độc lập về tài chính đối với các chủ thể có liên quan như cơ quan thẩm định, tổ chức tư vấn, cơ quan phê duyệt, nhà tài trợ... Do đó, đề nghị dự thảo luật sửa đổi cần quy định nhà thầu tham gia phải độc lập về tính pháp lý, độc lập về tài chính mới bao hàm hết các chủ thể có liên quan đến hoạt động nhà thầu, để đảm bảo tính pháp lý, khách quan trong đấu thầu, đồng thời độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính không chỉ áp dụng đối với hình thức đấu thầu hạn chế mà phải bao hàm áp dụng cho tất cả các hình thức đấu thầu mới đảm bảo tính khách quan trong quá trình đấu thầu. Bên cạnh để tránh tình trạng nhà thầu nhận quá nhiều gói thầu và vượt quá năng lực nhà thầu sẽ ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ và có hiện tượng giao thầu, Dự thảo Luật nên quy định thêm nội dung vào điều kiện tham dự thầu.
Bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu là một yêu cầu, đòi hỏi của thực tế. Luật Đấu thầu (sửa đổi) ra đời cũng vì đáp ứng yêu cầu đó. Dự thảo Luật chỉ làm tròn vai trò của mình khi bảo đảm hai nhiệm vụ: tạo môi trường cho cơ chế cạnh tranh vận hành trong hoạt động đấu thầu và duy trì và bảo đảm sự lành mạnh của cơ chế cạnh tranh. Muốn vậy, sẽ chỉ có cạnh tranh khi cuộc đấu thầu đáp ứng đủ các điều kiện: có nhiều người tham gia dự thầu; các nhà dự thầu phải độc lập với nhau và với người mời thầu; không có tồn tại bất cứ thỏa thuận nào giữa người mời thầu với một, một số người dự thầu, hoặc giữa những người dự thầu với nhau. Lỗi ở bất kỳ khâu nào trên cũng sẽ làm vô hiệu cơ chế cạnh tranh lành mạnh. Đây cũng là bài toán đặt ra cho Ban soạn thảo trong quá trình sửa Luật Đấu thầu.
Box: Điều 6. Bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu
1. Nhà thầu nộp hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển phải độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính với các nhà thầu tư vấn lập hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển; đánh giá hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển; thẩm định kết quả mời quan tâm, kết quả sơ tuyển.
2. Nhà thầu tham dự thầu phải độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính với các bên sau đây:
a) Chủ đầu tư, bên mời thầu;
b) Các nhà thầu tư vấn lập, thẩm tra, thẩm định hồ sơ thiết kế, dự toán; lập, thẩm định hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu; đánh giá hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất; thẩm định kết quả lựa chọn nhà thầu gói thầu đó;
c) Các nhà thầu khác cùng tham dự thầu trong một gói thầu đối với đấu thầu hạn chế.
3. Nhà thầu tư vấn giám sát thực hiện hợp đồng phải độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính với nhà thầu thực hiện hợp đồng, nhà thầu tư vấn kiểm định gói thầu đó.
4. Nhà đầu tư tham dự thầu phải độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính với các bên sau đây:
a) Nhà thầu tư vấn đấu thầu đối với dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất cho đến ngày ký kết hợp đồng dự án;
b) Nhà thầu tư vấn thẩm định dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất cho đến ngày ký kết hợp đồng dự án;
c) Cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bên mời thầu.
5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.