Bộ ba thần thánh trong “Rừng trúc” (Kỳ 1)

Nguyễn Thị Minh Thái 10/07/2013 08:37

Chính đạo diễn Nguyễn Đình Nghi đã tái sinh một Lý Chiêu Hoàng, bước ra từ Rừng trúc của nhà văn Nguyễn Đình Thi, một bà hoàng tài sắc vẹn toàn, đa cảm, đa tình, đầy uy nghi và quyết đoán trí tuệ, với những cử chỉ lịch sử cao quý, xứng hợp nhất với sự tồn vong của giang sơn, đất nước.

>> Bộ ba thần thánh trong “Rừng trúc” (Kỳ cuối)

Anh Tú vai Trần Cảnh, Lê Khanh vai Lý Chiêu Hoàng trong kịch Rừng trúc
Anh Tú vai Trần Cảnh, Lê Khanh vai Lý Chiêu Hoàng trong kịch Rừng trúc

Trong khá nhiều vở diễn thể loại kịch thành công về đề tài lịch sử của thời điểm hai thập niên, vắt từ cuối thế kỷ XX sang đầu thế kỷ XXI, tôi cho rằng thành công của vở Rừng trúc là trường hợp điển hình nhất của thể loại kịch lấy lịch sử làm đề tài và lịch sử đã được người - sân - khấu xử lý rất nghệ thuật, bởi sự hạnh ngộ của bộ ba thần thánh: nhà viết kịch - nhà đạo diễn - nghệ sĩ biểu diễn, lần lượt với ba cái tên chói sáng: nhà văn Nguyễn Đình Thi (viết kịch), đạo diễn NSND Nguyễn Đình Nghi (dàn dựng) và NSND Lê Khanh (sắm vai chính Lý Chiêu Hoàng).

Tín niệm riêng về viết kịch lịch sử của Nguyễn Đình Thi

Nguyễn Đình Thi không phải là người thích lập ngôn về việc viết kịch lịch sử, song ông yêu vô cùng lịch sử ngàn năm Thăng Long Hà Nội, nơi chính ông đã phát hiện hồn cốt văn hóa thâm sâu của nó, ngay trong ca khúc Người Hà Nội nổi tiếng của ông, với câu hát còn xanh mãi với thời gian: Hà Nội là nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm”. Trong nhịp đi hải hà của lịch sử kinh thành Hà Nội, Nguyễn Đình Thi vô cùng yêu Hà Nội trong Tết Nguyên đán cổ truyền. Trong Hồi ức về kịch (Sách của ông, Tác phẩm chọn lọc, Thay lời bạt, nxb Sân Khấu), ông mê Tết Hà Nội đến thú nhận: “Tôi có ba vở kịch viết trong những ngày Tết, Hoa và Ngần viết vào dịp Tết Giáp Dần (đầu năm 1974). Rừng trúc, Tết Mậu Ngọ (đầu năm 1978) và Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Tết Kỷ Mùi (đầu năm 1979). Cả ba đều lấy việc xảy ra ở Thăng Long - Hà Nội và kết thúc ở cảnh Tết. Tôi có mong mỏi thầm là vào dịp năm mới truyền thống của dân ta, có được kịch diễn cho công chúng xem để góp chút phần nhỏ vào niềm vui lớn của mọi nhà và mọi người”.

Những tâm sự này thật giản dị và khiêm cung, nhẹ êm như “mong mỏi thầm” của nhà văn mê viết về lịch sử Hà Nội, và đằng sau nó, đã giấu kín một tín niệm viết kịch lịch sử về Hà Nội. Theo Nguyễn Đình Thi, có lẽ viết kịch trong không gian thiêng Hà Nội dịp Tết Nguyên đán cổ truyền là cách nhắc nhủ tốt nhất và trước hết cho chính người cầm bút, đặng khơi dậy từ ký ức ngàn năm Thăng Long - Hà Nội những sự kiện và con người Hà Nội hào hoa, rồi kết thúc kịch bằng cảnh Tết, để người Hà Nội hôm nay có niềm vui thế sự trong những ngày năm mới sang trang. Ý tưởng viết kịch lịch sử về Hà Nội đã đành sáng láng thế, ngầm ý cả một tín niệm riêng về đề tài lịch sử Hà Nội sâu sắc thế, nhưng trong thực tế dàn dựng và biểu diễn cả ba vở kịch, nhất là hai vở kịch lịch sử: Nguyễn Trãi ở Đông Quan, và Rừng Trúc, đã khiến Nguyễn Đình Thi chỉ nhận được… nỗi buồn thế sự. Ông buồn bã nhớ lại: “Tiếc rằng ba vở kịch Tết của tôi đều không được may mắn: vở Hoa và Ngần, đạo diễn Dương Ngọc Đức dựng cho Đoàn kịch Hà Nội, Thanh Tú vai Ngần, năm 1975, đã tổng duyệt, nhưng không được ra mắt” và được biểu diễn duy nhất một đêm cho đồng nghiệp và Nguyễn Đình Thi để “an ủi tác giả”.

Song, hai kịch bản về lịch sử lại có khác biệt. Vở Nguyễn Trãi ở Đông Quan có số phận khá hơn. Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi dựng cho Đoàn kịch nói Trung ương, nhân kỷ niệm 500 năm sinh Nguyễn Trãi. Nghệ sĩ - vua hài kịch Trần Tiến xuất thần vai chính kịch Nguyễn Trãi. Vở ra mắt Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc 1980 tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, hoành tráng và lộng lẫy, chiếm được cảm tình sâu sắc của đồng nghiệp sân khấu, nhưng lại theo Nguyễn Đình Thi, lại vẫn là tiếc nuối: “Vở được diễn thêm ít buổi rồi phải thôi, vì không được phép tiếp tục”.

Đến Rừng trúc, viết năm 1978, ngay khi ráo mực, Nguyễn Đình Thi đã hân hoan đem đến tòa soạn Tạp chí Sân khấu, 51 Trần Hưng Đạo, đích thân đọc cho Lưu Trọng Lư, Xuân Trình, nhà sử học Lê Văn Lan, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Ánh, tôi, cùng toàn thể đồng nghiệp là phóng viên tạp chí nghe. Tất cả đều choáng ngợp bởi cách viết kịch lịch sử rất quyết liệt, đáo để về cuộc chuyển giao quyền bính đầy bi kịch giữa nhà Lý, giữa Lý Chiêu Hoàng, với nhà Trần, Trần Cảnh, trên sự thiết kế chuyển giao ngai vàng thiên tài của “kiến trúc sư” Trần Thủ Độ. Từ đó, nhà Lý mất ngôi vương, phải chuyển sang nhà Trần. Và kịch bản đã không chỉ thế, nó còn ẩn giấu trong đáy chữ sâu thẳm một nỗi buồn nhân thế mênh mang của chính Nguyễn Đình Thi, mà chính tôi nghe ông đọc từ ngày xa xưa ấy, cách nay đã hơn ba chục năm, cũng thấm thía mà nảy sinh hồ nghi về khả năng “hiện thực hóa” đời sống của kịch bản trên sân khấu. Dường như không có khả năng ấy thì phải. Vì thế, dù Đoàn kịch Điện ảnh lúc bấy giờ đã để ý, mà không thể dàn dựng được.

Riêng đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, đem lòng yêu kịch bản này, nhiều năm đối thoại và nghiền ngẫm cách dàn dựng với Nguyễn Đình Thi, nhưng phải hơn hai chục năm sau, năm 1999, cùng trợ giúp của đạo diễn Phạm Thị Thành, (ông đã rất yếu mệt) mới đưa được lên sàn tập của nhà hát Tuổi Trẻ (tờ chương trình của Rừng trúc tham dự Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc 1999, đã ghi tên Nguyễn Đình Nghi - Phạm Thị Thành đồng đạo diễn vở kịch này). Kịch bản Rừng trúc đến năm đó, mới lần đầu thực sự được sống thân phận vở diễn, như lẽ ra nó phải sống bằng chính thân phận ấy mới phải, ngay từ năm 1978.

Trong hai kịch bản về đề tài lịch sử Thăng Long - Hà Nội của riêng Nguyễn Đình Thi, có thể thấy rõ những kinh nghiệm xử lý nghệ thuật trong cách viết loại kịch bản đặc thù này, từ một nhà văn rất nổi tiếng, và cũng là vấn đề đầu tiên phải giải quyết của cả quá trình dàn dựng vở kịch lịch sử này trên sân khấu. Vậy thì điều gì khiến Nguyễn Đình Thi đến buộc phải viết Rừng trúc và lựa chọn cái xung đột xuyên suốt về tranh chấp quyền bính giữa hai triều đại Lý - Trần, thông qua những số phận cá nhân trong lịch sử? Và đã được nhà văn tái tạo, hư cấu, nhằm tạo tác một kịch bản hay, đến mức kịch bản ấy bị trắc trở về số phận sân khấu, đến tận 21 năm sau, mới được Nguyễn Đình Nghi dàn dựng cho Nhà hát Tuổi Trẻ diễn thành công, đoạt Huy chương Vàng Hội diễn kịch toàn quốc năm 1999?

 Rốt cuộc, Nguyễn Đình Thi lại rất hài lòng về sự kiện này, cho đó là “hạnh phúc muộn” và thoáng chút bùi ngùi cho số phận một vở diễn lịch sử khác: “Dù sao tôi cũng được nhìn thấy các nhân vật kịch của tôi sống trong ánh điện sân khấu. Tôi nghĩ đến anh Nguyễn Huy Tưởng, khi vở Vũ Như Tô của anh được diễn, thì anh đã mất trên ba mươi năm…”.

Rừng trúc, thực ra, đã được Nguyễn Đình Thi suy ngẫm nung nấu từ lâu. Những ngày áp Tết Mậu Ngọ 1978, ông đã có duyên may tìm thấy ở cạnh Hồ Tây (nhà sáng tác của Hội Nhà văn Việt Nam ở Quảng Bá), một không gian thuận lành nhất cho ông trả món nợ kịch lịch sử - thế sự mà Nguyễn Đình Thi trót cưu mang trong chính thời điểm ngổn ngang suy nghĩ riêng tư về thế sự lúc bấy giờ. Trốn vào góc hồ Tây một mình, ngày ngày viết kịch, ông ngắm mặt hồ Tây no mắt từ trên đê cao, dào dạt những đợt sóng xô màu thép lạnh. Xa xa dãy núi Ba Vì, bên kia là sông Hồng sóng đỏ phù sa, bãi bờ xanh biếc. Ngay trước mắt là cỏ cây hoa lá trong vườn. Ngắm mãi gốc mai nhỏ, gần Tết lấm tấm đầy hoa trắng muốt rung rung trong gió bấc, ông “nôn nao thấy cuộc sống đẹp kỳ diệu vượt hết mọi tưởng tượng”. Nguyễn Đình Thi thấm vào lòng cảnh tượng ấy mỗi ngày và thú nhận, chúng đã lặn sâu “vào kịch tôi viết. Trong Rừng trúc, tôi cho Lý Chiêu Hoàng từ bỏ cung điện, lên ở ven hồ này, trong một căn nhà gỗ khiêm tốn. Ở đây, nhân vật của tôi đã nói với Trần Thủ Độ: ‘Thưa quốc công, việc nước là lớn nhất, nhưng việc người với người cũng không phải là nhỏ hơn”. Và ông đắc ý chọn màn vĩ thanh thật ý nghĩa cho chính nhân vật Lý Chiêu Hoàng mà ông yêu dấu: giáp Tết Mậu Ngọ 1258, sau khi nhà Trần đánh bại cuộc xâm lăng lần thứ nhất của quân Nguyên, ven hồ Tây hoa đào bắt đầu nở trong vườn. Lý Chiêu Hoàng lòng đã bình yên đón mùa xuân mới với thay đổi lớn trong đời và đã đón nhận được hạnh phúc…

Nhân vật kịch Lý Chiêu Hoàng ở kịch bản này rõ ràng đã được xây dựng trong những cảm niệm sâu xa về lịch sử của riêng Nguyễn Đình Thi, và trở nên độc đáo bởi đã được khơi nguồn từ những va chạm nhân thế của Nguyễn Đình Thi với thời cuộc. Cách viết trầm tư lịch sử, từ cái nhìn đương đại, Nguyễn Đình Thi đã đụng đến vấn đề sáng tác cơ bản nhất của nhà viết kịch về đề tài lịch sử: viết về nhân vật lịch sử trong thì hiện tại của tâm thế nhà văn đương đại.

(Còn một kỳ nữa)

Nguyễn Thị Minh Thái