Văn học Áo chinh phục người Việt

Lê Thủy 03/07/2013 08:34

Văn học Áo qua những đại diện xuất sắc của mình đã có chỗ đứng vững chắc trong đời sống văn học Việt Nam, tác động đến cả người viết và người đọc Việt Nam.

Ngày 2.7, tại Hà Nội, Hội Nhà văn Hà Nội phối hợp với Đại sứ quán Áo tại Việt Nam tổ chức hội thảo Văn học Áo ở Việt Nam. Đây là dịp nhìn lại một số tác giả và tác phẩm văn học Áo đã được dịch sang tiếng Việt thời gian qua, để hiểu rõ hơn giá trị, tác động của chúng đối với người viết và người đọc Việt Nam.

Áo có dân số chỉ hơn 8 triệu người nhưng Áo có một nền văn học của những tác giả và tác phẩm lớn. Theo Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội Phạm Xuân Nguyên, văn học Áo là một khái niệm phức tạp, không dễ định nghĩa, do hoàn cảnh địa lý, lịch sử, chính trị tạo nên. Trước hết, về mặt ngôn ngữ, đó là nền văn học chủ yếu và phần lớn viết bằng tiếng Đức. Theo một số nhà nghiên cứu thì “văn học Áo” theo nghĩa chặt chẽ của từ này chỉ bắt đầu từ năm 1806 khi hoàng đế Francis II giải tán Đế quốc La Mã Thần Thánh và lập ra Đế quốc Áo. Nhưng nếu định nghĩa rộng hơn thì nền văn học Áo gồm tất cả tác phẩm văn học được viết ra trên lãnh thổ của nước Áo hiện nay và trong lịch sử (thời kỳ đế quốc Áo - Hung), nhất là những tác phẩm viết bằng tiếng Đức. Như vậy, văn học Áo phải được xem xét trong sự nối kết chặt chẽ với văn học Đức nói chung, cho nên văn học Áo gồm những tên tuổi như Arthur Schnitzler, Franz Werfel, Stefan Zweig, Franz Kafka, Thomas Bernhard...

Nền văn học Áo qua những đại diện ưu tú của mình đã có mặt ở Việt Nam từ sớm, tác động nhiều mặt đến cách viết và cách đọc của người Việt Nam. Đến nay, khó có thể thống kê cụ thể, chính xác đã có bao nhiêu tác phẩm văn học Áo được dịch sang tiếng Việt, cũng chưa thể xác định cuốn sách nào của văn học Áo được dịch sang tiếng Việt đầu tiên. Theo các nhà nghiên cứu, có lẽ tác giả Áo nổi tiếng nhất ở Việt Nam là Sigmund Freud, cha đẻ của học thuyết “phân tâm học”. Ở Việt Nam phân tâm học được biết đến khá sớm, có thể từ đầu thế kỷ XX, và đã được vận dụng trong sáng tác (Vũ Trọng Phụng) và trong nghiên cứu (Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa). Đến thời kỳ đổi mới đất nước, trong đó có đổi mới văn học, phân tâm học được nhìn nhận như một lý thuyết khoa học có tác động mạnh đến sáng tạo văn học nghệ thuật. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh chia sẻ: “Từ lâu tôi đã để công đọc Freud và những tác giả phân tâm học. Tôi nghĩ nó có thể là một thủ pháp để đổi mới cách viết”. Và ông đã dùng lý thuyết căn bản của Freud để sáng tác các tác phẩm Miền hoang tưởng (1971 - 1972), Trư cuồng (1982), Mẫu thượng ngàn (2006)…

Trong khi đó, Stefan Zweig có thể nói là nhà văn Áo thân thuộc, gần gũi nhất đối với văn giới Việt Nam. Chỉ bằng hai truyện Bức thư của người đàn bà không quenHai mươi tư giờ trong đời một người đàn bà, Zweig đã chinh phục các nhà văn ở khả năng phân tích tâm lý con người một cách sâu thẳm và tinh tế, đau đớn và yêu thương. Nhiều tác phẩm, cả sáng tác và nghiên cứu của Zweig được dịch ra tiếng Việt đã khiến ông trở thành nhà văn được yêu thích, được đọc nhiều ở Việt Nam. Ngoài ra, nhà văn giành giải Nobel Văn học 2004 Elfriede Jelinek cũng đã kịp thời có mặt ở Việt Nam trong 2 bản dịch tác phẩm: Cô gái chơi dương cầm (Ngọc Cầm Dương dịch) và Tình ơi là tình (Lê Quang dịch). Nhà văn trẻ hiện đại đang nổi tiếng rộng khắp Daniel Kehlmann cũng đã đến với người đọc Việt Nam bằng tiểu thuyết Đo thế giới với một lối viết táo bạo...

Văn học Áo qua những đại diện xuất sắc của mình đã có chỗ đứng vững chắc trong đời sống văn học Việt Nam qua một thời gian dài. Trước kia, con đường đến Việt Nam của các tác giả Áo nhiều khi là vòng quanh qua một ngôn ngữ khác. Họ viết bằng tiếng Đức là chính, nhưng các bản dịch tiếng Việt lại là qua tiếng Anh hoặc tiếng Pháp. Chỉ đến gần đây một số tác phẩm văn học Áo viết bằng tiếng Đức mới được dịch sang tiếng Việt từ bản gốc. Đây là nỗ lực của các dịch giả tiếng Đức trong vai trò “con ngựa thồ văn hóa” từ Áo vào Việt Nam. Nhà văn Phạm Xuân Nguyên khẳng định: “Các tác phẩm văn học Áo đã tác động trước hết đến người viết ở Việt Nam. Văn học Việt Nam được hưởng lợi, nhà văn biết cách khai thác phần tâm lý của con người, viết sâu sắc, nghệ thuật hơn. Nền văn học ấy cũng đã chinh phục độc giả Việt với những sáng tạo văn chương có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống tinh thần nhân loại”.

Tuy nhiên, dịch giả Lê Quang cho rằng: văn học Áo hầu như bị bỏ qua trong những năm chiến tranh khốc liệt ở Việt Nam. Vài cố gắng lẻ tẻ gần đây như Quang Chiến dịch thơ phản chiến của Erich Fried, tiểu luận Lãng du trong văn học Áo của Lương Văn Hồng... còn chưa xứng tầm kho tàng văn chương đồ sộ mà độc giả Việt Nam mới chỉ được nghe tên tuổi như Thomas Bernhard và Peter Handke, nhà văn nữ nhận Giải Nobel Hòa bình Bertha von Suttner hay nhà văn nữ nhận Giải Nobel Văn học năm 2004 Elfriede Jelinek. Theo dịch giả Lê Quang góp ý, Hội Nhà văn Việt Nam cần có những định hướng, từ đó tác động đến các nhà xuất bản, độc giả, đồng thời hỗ trợ quảng bá khi các tác phẩm văn học Áo được dịch ra tiếng Việt. Từ đó, mới có thể giới thiệu sâu rộng hơn nữa nền văn học Áo tại Việt Nam.

Lê Thủy