Sự thận trọng của Tòa án Tối cao
Từ khi Hiến pháp Nhật Bản 1947 ra đời đến nay đã gần 70 năm. Mặc dù được trao quyền kiểm Hiến đối với các đạo luật đã ban hành, Tòa án Tối cao Nhật Bản thực hiện quyền này một cách rất thận trọng, với 8 lần ra phán quyết quy định của luật là trái Hiến pháp. So với tòa án nhiều nước, ví dụ như Tòa án Tối cao Mỹ thì số lượng này là ít.
![]() Trong quá trình kiểm hiến, Tòa án Tối cao Nhật Bản có khuynh hướng ngả về số đông |
Người Nhật giải thích, do trước khi được ban hành một đạo luật, đã có cơ chế kiểm tra tính hợp Hiến rất kỹ lưỡng và chặt chẽ của Cục Pháp chế Nội các cũng như các Cục Pháp chế của Hạ viện, Thượng viện. Đặc biệt là ở Nhật Bản, đại đa số dự luật do Nội các trình, nên vai trò của Cục Pháp chế Nội các rất lớn. Với sự kiểm tra nghiêm ngặt như vậy nên dẫn đến hệ quả là những quy định vi Hiến rất ít.
Bên cạnh đó, như các học giả, các nhà hoạt động thực tiễn Nhật Bản giải thích, các thẩm phán Tòa án Tối cao Nhật Bản luôn quan niệm Tòa án Tối cao là tòa án tư pháp thuần túy và họ muốn dành công sức của mình để giải quyết các vấn đề tư pháp hơn là đụng chạm đến các vấn đề về Hiến pháp, vốn ít nhiều mang tính chính trị. Vì vậy, đối với Tòa án Tối cao, việc đưa ra phán quyết về tính vi Hiến của luật được xem là công việc thứ yếu, không phải nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu. Nghĩa vụ quan trọng của các thẩm phán này là giải quyết vụ việc pháp lý đang diễn ra, mang lại công lý cho đương sự, là giải thích luật một cách chính xác và kịp thời nhất.
Mặt khác, do những trường hợp cần tòa án phán xét về tính vi Hiến là tương đối ít ỏi, như đã nói ở trên, nên không hẳn Tòa án Tối cao không xem xét nhiều vụ kiện liên quan đến tính hợp Hiến của luật. Nguyên nhân chính là vì Tòa thường phán quyết các quy định của đạo luật đó đã hợp Hiến hay chưa; hoặc Tòa cho rằng, quy định này vi Hiến một phần, gọi là tuyên hợp Hiến hạn chế. Điều này cũng liên quan đến cơ cấu tổ chức của Tòa án Tối cao, gồm có Hội đồng xét xử toàn thể 15 thẩm phán và 3 tiểu Hội đồng xét xử với 5 thẩm phán mỗi Hội đồng. Nếu phải đưa ra nhận định có yếu tố vi Hiến thì sẽ phải mở phiên tòa với sự tham gia của 15 thẩm phán, trong khi đó nếu tuyên hợp Hiến thì chỉ cần Hội đồng xét xử nhỏ với 5 thẩm phán, dễ triệu tập hơn nhiều.
Có trường hợp Tòa án tránh không thể hiện quan điểm, mà cũng không phản đối quan điểm của cơ quan khác về một vấn đề nào đó. Trong trường hợp ấy, có thể hiểu im lặng là đồng ý. Chẳng hạn, hiện ở Nhật Bản đang có rất nhiều tranh luận xảy ra xung quanh việc thành lập Lực lượng Phòng vệ quốc gia có trái với Điều 9 Hiến pháp 1947 hay không, vì điều khoản này quy định một Nhật Bản hòa bình là không sử dụng sức mạnh quân sự. Cục Pháp chế Nội các đã đưa ra nhận định: lực lượng này không phải là sức mạnh quân sự, mà là lực lượng phòng vệ; lực lượng này không tấn công nước khác, mà là sự phòng vệ tối thiểu khi quốc gia bị tấn công. Vì vậy việc thành lập lực lượng này không trái với Điều 9 Hiến pháp. Tuy nhiên, Tòa án Tối cao tuyên bố, đây là vấn đề mang tính chính trị chuyên sâu, do đó Tòa không nhận định gì. Nhưng qua đó, Tòa đã ngầm thừa nhận quan điểm của Cục Pháp chế Nội các.
Có ý kiến cho rằng, cũng như Tòa án Hiến pháp của Hàn Quốc hay Đài Loan, Tòa án Tối cao Nhật Bản khi thực thi quyền kiểm Hiến thường có khuynh hướng nương theo đa số đã thông qua đạo luật có quy định đang bị kiện vi Hiến. Vì vậy, thay vì đi ngược lại đa số, Tòa án thường không muốn làm mất lòng nhánh lập pháp và hành pháp.