Quyền công dân hay quyền con người là gốc của mọi quyền?
Hai cách tiếp cận của Aristotle và Locke đã dẫn đến hai trường phái quan điểm về pháp quyền tự nhiên.
Trường phái truyền thống
Trường phái truyền thống bắt đầu từ các nhà tư tưởng cổ đại như Plato, Aristotle và Ciceron cũng như các nhà lý luận Thiên Chúa giáo như Saint Paul và đặc biệt là Thomas Aquinas. Trường phái này cho rằng quyền công dân là gốc của mọi quyền khác. Quyền tự nhiên (quyền con người) chỉ là quyền phái sinh của quyền công dân vì khi là công dân, con người mới được hưởng các quyền đó. Những quyền đó không tồn tại trong trạng thái dã man, nơi con người không được bảo vệ và vì không được bảo vệ nên các quyền đó không tồn tại. Vì vậy, con người cần luôn ý thức được mình là công dân, gắn với cộng đồng. Nhờ có mối liên hệ với cộng đồng, con người trở thành công dân và có các quyền.
Theo quan điểm này, pháp quyền tự nhiên dựa trên ba nguyên tắc:
Nguyên tắc quyền lực công cộng: Luật cần bao gồm và phải phù hợp với các chuẩn mực đạo đức. Luật chỉ mang tính bắt buộc khi phù hợp với ý chí của nhân dân. Nhà nước chỉ chiếm được ưu thế khi dựa vào ý chí của nhân dân và nhờ đó mà trở thành pháp quyền.
Nguyên tắc lãnh đạo: Con người sống trong xã hội gồm nhiều người khác là một điều tự nhiên và cần có những phương tiện để quản lý các nhóm. Ở nơi nào có nhiều người và mỗi người đều chăm chút cho lợi ích riêng thì đám đông dân chúng có thể bị phá vỡ và phân tán trừ khi có một chủ thể quan tâm duy trì cái thuộc lợi ích chung của tất cả các thành viên.
Nguyên tắc phụ thuộc: Nhà nước nên để các tổ chức tự hoạt động và hỗ trợ các cá nhân và các nhóm hành động vì các mục tiêu và cam kết họ lựa chọn. Các tổ chức xã hội có các chức năng riêng nên hoạt động của chúng độc lập và không bị can thiệp trong chừng mực chúng không phá vỡ các mục tiêu chung. Giáo Hoàng Pius XI đã bảo vệ nguyên tắc này: “Thật sai lầm khi lấy đi của các cá nhân và trao cho một cộng đồng cái mà các cá nhân có thể làm… Trong bản chất sâu xa của nó, mục tiêu đúng đắn của tất cả các hoạt động xã hội là giúp đỡ các thành viên trong cơ thể xã hội chứ không bao giờ phá hủy hay bỏ rơi họ”.
Trường phái hiện đại
Trường phái hiện đại cho rằng các quyền tự nhiên (quyền con người) là gốc của mọi quyền. Con người tham gia vào cộng đồng để bảo vệ các quyền đó. Cách tiếp cận này dẫn tới chủ nghĩa tự do với ảnh hưởng của nhiều nhà tư tưởng như Hugo Grotius, Samuel Pufendoft và nhiều nhà triết học khác, trong đó, người có ảnh hưởng lớn nhất là John Locke.
Hugo Grotius đã hợp lý hóa pháp quyền tự nhiên căn cứ vào những nguyên tắc về quyền của lý trí, khế ước và trở thành người sáng lập ra thuyết pháp quyền tự nhiên hiện đại. Ông đã tạo ra khoảng không gian rất rộng cho hành động của các cá nhân mà nhà nước không được can thiệp. Sự vận hành của khoảng không gian đó là do sự chủ động của người dân và hiệu quả phụ thuộc vào tính tự giác của những người tham gia.
Xpinoda sau đó cho rằng, xã hội được tạo lập bằng cách thỏa thuận về việc chuyển giao sức mạnh và quyền của mỗi người sang xã hội nói chung. Nhà nước ra đời và chức năng đầu tiên của nhà nước là bảo vệ các quyền tự do có hạn chế của con người. Nhà nước buộc con người phải sống theo các quy luật của lý trí. Ngoài chức năng đó ra, nhà nước nên hạn chế can thiệp vào các hoạt động khác của con người.
Từ cách nhìn khác nhau về quyền con người, quyền công dân, các trường phái lý luận cũng có sự khác nhau cơ bản về hình thức tổ chức nhà nước, ranh giới giữa chính trị và vai trò của người dân. Tuy nhiên, các lý thuyết đều đi đến thống nhất rằng nhà nước không phải là vô hạn, nó bị giới hạn bởi một loạt các quyền mà công dân vẫn được bảo lưu kể cả sau khi đã ký khế ước xã hội. Nhà nước không thể buộc công dân tiếp nhận một hình thức tư duy nào đó hay chỉ nói những điều nhà nước quy định. Ngược lại, nhà nước sẽ hùng mạnh khi vừa bảo đảm việc duy trì cuộc sống cho công dân vừa thỏa mãn những nhu cầu của họ.
Cả hai trường phái đều cho rằng, nhà nước khi được ủy quyền, phải bảo đảm cho những người ủy quyền cả các quyền con người và quyền công dân. Trong đó, quyền công dân được xem xét trong mối quan hệ với nhà nước, nghĩa là chỉ những ai là công dân mới có các quyền đó và quyền đó không dành cho người không phải là công dân, bị loại trừ ra khỏi cộng đồng, là công dân của một quốc gia khác hay đang sinh sống ở một quốc gia khác. Quyền công dân có thể khác nhau trong các quốc gia khác nhau. Quyền này không chỉ bao gồm sự áp đặt của những người ủy quyền đối với nhà nước mà đó là một khối các lợi ích và cả những gánh nặng mà những người lập ra cộng đồng chính trị đó chia sẻ và chấp nhận. Trong khi đó, quyền con người được thừa nhận chung trong mọi quốc gia và cộng đồng.
Tuy xuất phát từ hai cách tiếp cận nhưng cả trường phái truyền thống và hiện đại về pháp quyền tự nhiên đều khẳng định rằng nhà nước phải phụ thuộc vào các chuẩn mực dựa trên tự nhiên và thừa nhận tồn tại một khoảng không gian ngoài nhà nước, nơi người dân có thể tự do hoạt động để phục vụ những lợi ích và nhu cầu của mình. Tuy nhiên, pháp quyền tự nhiên nói chung ngoài việc quan tâm đến sự phân biệt giữa nhà nước và lĩnh vực công cộng còn nhấn mạnh trách nhiệm đi đôi với các quyền từ cả hai phía nhà nước và xã hội công dân. Nói cách khác, pháp quyền tự nhiên coi nghĩa vụ qua lại giữa những con người là vô điều kiện, đồng thời nhấn mạnh vào phẩm hạnh của con người và nghĩa vụ của người công dân.
Được hoàn thành với sự giúp đỡ của Ths. Bùi Việt Hương
Viện Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh