Cuộc đàm phán dài nhất lịch sử
… Ngày 27.1.1973, ngày ký kết Hiệp định Paris, có một ý nghĩa lịch sử to lớn đối với dân tộc. Đối với mỗi chúng tôi trong đoàn cũng là ngày không thể quên trong cả cuộc đời…
Tôi trở lại Paris đầu năm 1972 và lại tiếp tục đến Kléber (Trung tâm Hội nghị quốc tế của Pháp ở Paris) mỗi sáng thứ Năm. Trên chiến trường lúc này rất căng thẳng, nhưng trên bàn hội nghị thì vẫn là cuộc đối đáp “giữa những người điếc”. Cảm giác chán ngán vẫn đeo đẳng, cứ phải tố cáo âm mưu, tội ác của Mỹ - Thiệu, đòi Mỹ rút quân không điều kiện, không biết chừng nào mới ra khỏi bế tắc. Phải tìm cách gỡ ra cho kỳ được. Ngày 11.1.1972, tôi được chỉ thị tuyên bố 2 điểm, đề nghị một giải pháp logic và hợp lý: rút quân Mỹ, thành lập ở miền Nam một Chính phủ hòa hợp dân tộc ba thành phần: Chính phủ Cách mạng Lâm thời, chính quyền miền Nam và thành phần thứ ba.
Lúc này trên chiến trường quân ta ở thế phản công, ở Mỹ là năm bầu cử Tổng thống, Nixon đang chịu áp lực mạnh của nhân dân đòi đưa binh lính Mỹ về nước. Tôi cho rằng lập trường 7 điểm của Chính phủ Cách mạng Lâm thời cùng 2 điểm nói thêm, nhấn mạnh đến yêu cầu Mỹ phải rút quân, để các bên Việt Nam ở miền Nam giải quyết vấn đề nội bộ của mình, là một chủ trương chiến lược sáng suốt và đúng lúc, chúng tôi ra sức tuyên truyền, giải thích... Dư luận thế giới, đặc biệt ở Mỹ hoan nghênh, chính quyền Sài Gòn càng lúng túng, mâu thuẫn nội bộ của họ càng tăng, họ càng bị nhân dân căm ghét.
![]() Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Thị Bình thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời CHMNVN ký Hiệp định Paris, 27.1.1973 |
Ở Paris, chúng tôi từng giờ hướng về Quảng Trị, đặc biệt về cuộc chiến đấu ở Thành cổ nổi tiếng. Không có tin tức cụ thể, kịp thời, nhưng những gì được thông báo làm nhói tim chúng tôi. Chúng tôi biết các chiến sỹ của chúng ta đều rất trẻ. Họ hiểu cuộc giành giật “đất” ở đây có nghĩa là giành lại Tự do và Độc lập cho Tổ quốc và họ sẵn sàng hy sinh. 81 ngày đêm khốc liệt, quân ta không giữ được Thành cổ, nhưng tinh thần kiên cường chiến đấu của các chiến sỹ là thể hiện quyết tâm không gì lay chuyển được của cả dân tộc, và ở Paris chúng tôi hiểu chính tinh thần đó đã góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của chúng tôi trên bàn hội nghị.
Trong những ngày này, nhiều đoàn Mỹ đến thăm hai đoàn chúng tôi: các bà mẹ, những người vợ của các phi công, các đoàn tôn giáo, phụ nữ, thanh niên. Đặc biệt đoàn anh Martin Fenryder dẫn đầu 24 thanh niên Mỹ đến tặng tôi bài thơ cảm động anh vừa sáng tác:
Tôi bị xô đẩy và thu hút
Bởi sức mạnh tinh thần của Việt Nam
Mắt tôi lóa đi vì một ngọn lửa,
Hiện thân của sức sống Việt Nam!
Tim tôi nhảy múa vì xúc động
Ôi! Tình yêu Việt Nam! Hòa bình!
Tất cả sắp là hiện thực.
Trong những giờ phút Paris ngắn ngủi
Và bao nhiêu mơ ước.
Và tất cả từ hai phương trời xa lắc
Sẽ hòa thành một niềm chung vui!
Đến cuối tháng 9.1972, chỉ còn hai tháng nữa là đến ngày bầu cử Tổng thống Mỹ. Đây là thời cơ thuận lợi để ép Mỹ đi vào đàm phán thực chất. Đồng chí Lê Đức Thọ, cố vấn đặc biệt của Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã mang từ trong nước sang “Dự thảo Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam”. Chúng tôi được thông báo nội dung Dự thảo Hiệp định đã được Bộ Chính trị trong nước cân nhắc rất kỹ.
Từ ngày đầu cuộc đàm phán đến tháng 9.1972, lập trường của Việt Nam luôn nhấn mạnh hai nội dung cơ bản được coi là giải pháp “cả gói”. Mỹ phải rút quân hoàn toàn vô điều kiện ra khỏi miền Nam Việt Nam và phải xóa bỏ chính quyền Sài Gòn do Mỹ dựng lên; hai vấn đề này phải gắn chặt với nhau. Dự thảo Hiệp định lần này, ta chủ động nhấn mạnh việc Mỹ phải rút quân hoàn toàn ra khỏi miền Nam, chấm dứt chiến tranh, song nới lỏng yêu cầu vấn đề chính trị ở miền Nam Việt Nam.
Khi biết được nội dung cụ thể của Dự thảo Hiệp định, một số đồng chí trong đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời chúng tôi cũng có những băn khoăn. Liệu để lại vấn đề chính trị ở miền Nam thì Mỹ có chịu rút quân thực sự không? Có thể chấm dứt chiến tranh không? Kinh nghiệm ở Lào cho thấy sau Hiệp định Geneve 1962 vì chấp nhận chính phủ liên hiệp nhiều thành phần mà đã dẫn đến nội chiến. Và còn hàng chục vạn anh chị em tù chính trị của ta, có đảm bảo họ được thả và an toàn không? Chúng tôi phải trao đổi với nhau nhiều ngày, hình dung tình hình miền Nam sau khi rút quân... sẽ như thế nào? Nhưng rồi mọi người cũng hiểu việc quân Mỹ rút hoàn toàn ra khỏi miền Nam là vấn đề mấu chốt.
Trong hơn 2 tháng giữa đồng chí cố vấn Lê Đức Thọ, Bộ trưởng Xuân Thủy và ông Henry Kissinger - cố vấn đặc biệt của Tổng thống Nixon, có những cuộc tranh cãi “nảy lửa” xung quanh bản Dự thảo Hiệp định Paris. Lúc đó, dư luận quốc tế, nhất là ở Paris, nói nhiều về ông cố vấn, đặc biệt là Kissinger, như là một nhà ngoại giao khôn ngoan, có kinh nghiệm về đàm phán chính trị… Có người hỏi tôi gặp ông Kissinger không? Sự thật là tôi gặp ông nhiều lần nhưng mà “gián tiếp”, trong các cuộc đối thoại giữa hai ông cố vấn, khi nói đến lập trường của Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam, chỉ một lần tôi và ông ấy trực tiếp nói chuyện với nhau là khi Hiệp định Paris được ký kết xong, để nâng cốc sâm – panh, chúc mừng hòa bình!
Đến đầu tháng 10.1972, hai bên đã thỏa thuận về cơ bản một dự thảo và dự định đến ngày 30.10 sẽ ký Hiệp định Paris nhằm chấm dứt chiến tranh. Những ngày này hai đoàn đàm phán chúng tôi hoạt động rất nhộn nhịp. Đoàn miền Nam tăng cường các cuộc tiếp xúc để làm rõ thêm lập trường của ta, tố cáo địch ngoan cố muốn kéo dài chiến tranh. Nhiều đại biểu các nước muốn biết kết quả của các tiếp xúc “bí mật”. Chúng tôi vừa phấn khởi, vừa lo lắng… Quả nhiên đến đầu tháng 11.1972, khi Nixon thắng cử, thì ông ta liền lật lọng, đòi sửa lại nội dung Hiệp định. Và để buộc Việt Nam chấp nhận, ông ta đã tiến hành cuộc không kích tội ác liên tục 12 ngày đêm, từ ngày 18.12 đến ngày 31.12, bằng B52 xuống Hà Nội, Hải Phòng.
Khi nghe Mỹ dùng B52 oanh tạc Thủ đô và các thành phố lớn của ta, chúng tôi thực sự lo. B52 là máy bay giội bom hiện đại nhất của Mỹ, bay cao trên 10km, có hệ thống máy bay chiến đấu hỗ trợ và gây nhiễu khiến radar của ta khó phát hiện, tên lửa khó bắn trúng… Các bạn ở Pháp và các nước cũng đều lo lắng cho chúng ta, liệu lần này ta có chống cự được không? Đây là đòn đánh phản trắc và quyết liệt nhất của Mỹ. Ngày 21.12, chúng tôi tuyên bố ngừng đàm phán để phản đối. Đó là những ngày vô cùng căng thẳng.
Chúng tôi hồi hộp theo dõi tình hình trong nước. Đến khi nghe tin chiếc máy bay B52 đầu tiên bị bắn rơi ở Hải Phòng, rồi ở Hà Nội, liên tiếp bắn rơi một, hai, ba máy bay B52… chúng tôi vui mừng khôn xiết, tin rằng cuộc oanh kích cực kỳ dã man này của kẻ thù nhất định bị quân đội và nhân dân anh hùng của chúng ta đánh bại. Ngoài việc lo cho cái chung, tất cả anh chị em trong đoàn, nhất là các chị, đều hồi hộp theo dõi nghe ngóng các trận mưa bom B52 có rơi vào khu vực người thân mình đang sống không? Riêng tôi, khi nghe tin Mỹ giội bom trúng thị xã Hưng Yên, một thị xã nhỏ cách Hà Nội khoảng 30km, tôi bàng hoàng lo lắng, không biết các con tôi có thoát khỏi nguy hiểm không? May quá, vài ngày sau, các đồng chí trong nước báo tin các con tôi đều an toàn. Tôi thở phào!
Tôi được gọi về nước cấp tốc. Đến Trung Quốc, tôi gặp Chủ tịch Mao Trạch Đông và một số lãnh đạo khác của Trung Quốc. Chủ tịch Mao nói: “Sao các đồng chí Việt Nam phản ứng mạnh như vậy? Rồi Mỹ sẽ ra đi thôi”. Tôi không hiểu ý của Chủ tịch nên cũng không trả lời. Giữa đêm 30.12, tôi về đến Hà Nội, được tin Mỹ tuyên bố sẽ chấm dứt ném bom.
Mỹ đã cay đắng thấy rằng cả B52 cũng không thể làm nhụt ý chí của nhân dân ta; trái lại, ngoài thất bại quân sự, tổn thất nặng nề về B52, thất bại chính trị của Mỹ còn lớn hơn. Cả thế giới lên án Mỹ. Chính phủ Anh, đồng minh thân cận nhất của Mỹ cũng ra tuyên bố “đáng tiếc” trước hành động này của Mỹ.
Sau này, tôi được biết từ những năm 1960, Hồ Chủ tịch đã nói: “Kinh nghiệm ở Triều Tiên, Mỹ cuối cùng sẽ dùng B52 để đe dọa chúng ta”. Và theo sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, từ đó quân đội ta đã nghiên cứu cách hạ máy bay B52. Quả là Bác đã nhìn xa và quân đội ta thật anh hùng, thông minh.
Ngày 21.1.1973, tôi trở lại Paris, thời tiết Paris bớt lạnh, nắng đẹp. Ngày 23.1.1973 đồng chí Lê Đức Thọ và Henry Kissinger ký tắt vào văn bản Hiệp định. Và Hiệp định Paris được ký kết. Đòi hỏi dai dẳng từ đầu của Mỹ “Hai bên cùng rút quân (quân Mỹ và quân miền Bắc)”, cái gọi là “có đi có lại” đã thất bại. Phải ký Hiệp định hòa bình với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam rõ ràng Mỹ không còn con đường nào khác. Chúng ta đã đạt được thắng lợi to lớn, quan trọng, Mỹ phải rút hết đi, còn quân Việt Nam vẫn ở trên đất Việt Nam.
Trong lòng tôi, một cảm xúc mãnh liệt, bên cạnh một cảm giác bình thản, vì đinh ninh cái gì phải đến, tất sẽ đến.
Ngày 27.1.1973, ngày ký kết Hiệp định Paris, có một ý nghĩa lịch sử to lớn đối với dân tộc. Đối với mỗi chúng tôi trong đoàn cũng là ngày không thể quên trong cả cuộc đời.
Tất cả các báo trên thế giới đều đưa lên trang nhất sự kiện trọng đại này. Mọi người yêu hòa bình và công lý trên thế giới đều hồ hởi như chính mình đã chiến thắng.
Đêm 26 tháng Giêng, trong cả hai đoàn hầu như không ai ngủ, mọi người đều khẩn trương chuẩn bị cho công việc sẽ làm trong ngày hôm sau.
Sáng 27.1.1973, phòng hội nghị Kléber rực sáng ánh đèn. Trước nhà hội nghị, hàng ngàn người, kiều bào ta, bạn bè Pháp và các nước - vẫy chào chúng tôi giữa một rừng cờ đỏ sao vàng và cờ nửa đỏ nửa xanh. Tôi bước vào phòng họp, rất hồi hộp… Đúng 10 giờ, bốn Bộ trưởng Ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Nguyễn Duy Trinh), Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam (Nguyễn Thị Bình), Mỹ (William P.Rogers), Cộng hòa miền Nam (Trần Văn Lắm) ngồi vào bàn. Mỗi người ký vào 32 văn bản của Hiệp định.
Đặt bút ký vào bản Hiệp định Paris lịch sử, tôi vô cùng xúc động, nghĩ đến đồng bào, đồng chí, đến bạn bè ở cả hai miền Nam Bắc... Khi nhớ đến những người không còn nữa để biết được sự kiện này, tôi trào nước mắt. Tôi đã được thay mặt nhân dân và các chiến sỹ cách mạng miền Nam Việt Nam làm nhiệm vụ đấu tranh trực diện với Mỹ tại Paris, được thấy niềm tự hào vinh quang cùng với ân tình sâu đậm mà cả thế giới dành cho cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân ta. Vinh dự đó đối với tôi thật quá to lớn. Tôi không có đủ lời để nói lên được lòng biết ơn vô tận đối với đồng bào và chiến sỹ ta từ Nam chí Bắc đã chấp nhận mọi hy sinh dũng cảm chiến đấu để có được thắng lợi to lớn hôm nay, biết ơn Bác Hồ và cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Đảng, Mặt trận và Chính phủ Cách mạng Lâm thời đã tin cậy giao cho tôi nhiệm vụ khó khăn nhưng rất vẻ vang này. Tôi muốn nói lời cảm ơn sâu sắc bà con Việt kiều tại Pháp và các nước xung quanh, cảm ơn bạn bè quốc tế đã hết lòng vì cuộc chiến đấu của chúng ta, cảm ơn sự đoàn kết cộng tác của tất cả anh chị em trong hai đoàn đàm phán và các cơ quan, đoàn thể của ta ở Paris. Và tôi nghĩ đến gia đình, đến chồng con...
Trích hồi ký Gia đình, bạn vè và đất nước
“Ngày nay, đôi lúc rảnh rỗi, giở lại các cuốn sổ ghi vắn tắt các hoạt động của đoàn đàm phán Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tại Paris, chữ viết tắt, chi chít, có chỗ chính tôi cũng không còn đọc ra được, tôi ngạc nhiên không thể tưởng tượng khối lượng công việc của chúng tôi những năm tháng ấy sao nhiều như vậy. Nào là các cuộc họp đoàn với đồng chí Lê Đức Thọ, Xuân Thủy để nghe thông báo về tình hình chiến sự và chính trị trong nước, về nhận định tình hình quốc tế, nghe truyền đạt chỉ thị mới của lãnh đạo trong nước cho hai đoàn, nào hội ý giữa hai đoàn trao đổi về phương án đấu tranh và nội dung các bài phát biểu tại bàn đàm phán, dự kiến phản ứng của đối phương, đối sách của ta; nghe phản ánh về động thái của phương Tây; bàn việc cử các đoàn đi tham gia các hoạt động đoàn kết với Việt Nam, đi dự các hội nghị quốc tế, thăm các nước; phân công tiếp xúc các đoàn đại biểu quốc tế, với kiều bào; bàn kế hoạch trả lời phỏng vấn của các báo, các hãng vô tuyến truyền hình; cung cấp tin tức cho các tổ chức bạn bè... Nhìn lại, đúng là cái tập thể nhỏ bé của chúng tôi đã nỗ lực hết mình, làm tốt mọi nhiệm vụ. Và tôi càng hiểu vai trò và ý nghĩa quan trọng của hoạt động ngoại giao. Một đường lối ngoại giao đúng đắn, khôn ngoan không chỉ phản ánh tương quan lực lượng trên chiến trường, mà còn có thể hỗ trợ và phát huy kết quả chiến trường một cách có lợi nhất cho chúng ta”. |