Quy trình bầu cử tổng thống Mỹ

Quốc Đạt 05/11/2012 08:24

Đại hội đảng Dân chủ năm 2012 Nguồn: Telegraph
Đại hội đảng Dân chủ năm 2012                                                               Nguồn: Telegraph

Tiêu chuẩn ứng cử viên: Yếu tố không được quy định

Quy định đối với từng vị trí được bầu lên ở cấp liên bang khác nhau, được nêu rõ trong điều I và II của Hiến pháp Mỹ. Ví dụ, ứng cử viên tổng thống phải là một công dân Mỹ, ít nhất 35 tuổi, và cư trú tại Mỹ ít nhất là 14 năm. Phó tổng thống cũng phải đáp ứng những yêu cầu tương tự. Theo Điều bổ sung sửa đổi thứ 12 của Hiến pháp Mỹ, phó tổng thống không được là công dân của cùng một bang với tổng thống.

Tuy nhiên, có một “tiêu chuẩn” mà pháp luật không quy định, đó là các ứng cử viên tổng thống luôn là những người rất giàu có. Lịch sử chính trị Mỹ chỉ ra rằng không có một ông chủ nhà trắng nào có thể giành chiến thắng mà không có tiền, thậm chí cần phải có rất nhiều tiền. Chẳng hạn Thượng nghị sỹ Romney, cựu Thống đốc bang Massachusetts, là người giàu thứ ba trong số các ứng cử viên tranh cử chức tổng thống Mỹ kể từ năm 1992 tới nay với số tài sản ròng tối thiểu ước tính lên đến 250 triệu USD.

Chỉ định ứng cử viên: Màn trình diễn hình thức

Hiến pháp Mỹ không quy định các nguyên tắc chỉ định ứng cử viên tổng thống của các đảng. Vì như đã đề cập ở trên, không có đảng phái chính trị nào tồn tại ở thời điểm Hiến pháp được soạn thảo và phê chuẩn vào cuối những năm 1700.

Đầu năm 1796, các nghị sỹ Mỹ - những người xác nhận thuộc về một trong các đảng phái chính trị thời điểm đó - đã nhóm họp không chính thức để nhất trí đề cử ứng viên tổng thống và phó tổng thống của đảng họ. Hệ thống bầu chọn ứng cử viên này, còn được gọi là cuộc họp kín của nhà Vua, được áp dụng trong suốt 30 năm. Hệ thống này bị phá vỡ năm 1824, hệ quả của việc phi tập trung hóa quyền lực chính trị sau khi nước Mỹ mở rộng về phía Tây.

Cuối cùng, đại hội chỉ định ứng cử viên toàn quốc đã thay thế các cuộc họp kín của nhà Vua để bầu ra ứng cử viên của các đảng. Năm 1831, Đảng Anti - Mason, một đảng nhỏ đã họp tại một quán rượu ở thành phố Baltimore, bang Maryland để chọn ra các ứng cử viên và soạn thảo cương lĩnh chính trị để vận động tranh cử. Năm sau, những người của Đảng Dân chủ cũng họp tại quán rượu đó để bầu chọn ứng cử viên của họ. Kể từ đó, các chính đảng và hầu hết các đảng đều tổ chức các đại hội toàn quốc chỉ định ứng cử viên với sự tham dự của các đại biểu của bang, để chọn ra các ứng cử viên tổng thống và phó tổng thống và để nhất trí về các quan điểm chính sách.

Trong suốt thế kỷ XIX và thế kỷ XX, các đại hội chỉ định ứng cử viên tổng thống, mặc dù có sự tham dự của rất nhiều đảng viên trung thành, nhưng thường do lãnh đạo của đảng tại các bang kiểm soát. Các ông lớn chính trị này dùng ảnh hưởng để chọn đại biểu đi dự đại hội của bang và để đảm bảo rằng các đại biểu này bỏ phiếu chính xác tại đại hội đảng toàn quốc. Đối thủ của các lãnh đạo đảng yêu cầu cải cách để cử tri bầu chọn đại biểu dự đại hội đảng. Chính vì vậy các cuộc bầu cử sơ bộ ra đời để thực hiện nhiệm vụ này, năm 1916, hơn một nửa số bang đã tổ chức các cuộc bầu cử sơ bộ.

Tuy nhiên phong trào này đã chết yểu. Sau khi Chiến tranh Thế giới Thứ nhất kết thúc, các lãnh đạo đảng ý thức được rằng các cuộc bầu cử sơ bộ đe dọa quyền lực của họ, nên đã thuyết phục các cơ quan lập pháp bang bãi bỏ các cuộc bầu cử này vì lý do chúng quá tốn kém và ít người tham gia. Đến năm 1936, chỉ còn khoảng chục bang tiếp tục tổ chức các cuộc bầu cử sơ bộ.

Tuy nhiên, áp lực dân chủ hóa lại gia tăng sau Chiến tranh Thế giới II. Lần đầu tiên truyền hình mang đến một phương tiện giúp người dân có thể xem, nghe về các chiến dịch vận động tranh cử chính trị ngay trong phòng khách của họ. Các ứng cử viên tổng thống nhiều triển vọng có thể xuất hiện trên truyền hình để thể hiện sức lôi cuốn của họ. Những thập kỷ sau đó đã đem lại những cải cách dân chủ hóa nhằm mở rộng thành phần tham gia các đại hội chỉ định ứng cử viên của đảng.

Kết quả là, hiện nay hầu hết các bang đều tổ chức bầu cử sơ bộ. Tùy vào luật pháp của từng bang, cử tri trong cuộc bầu cử sơ bộ có thể bỏ phiếu bầu ứng cử viên tổng thống của một đảng và bỏ phiếu bầu một danh sách các đại biểu cam kết có thể bỏ phiếu cho ứng cử viên tổng thống, hoặc có thể gián tiếp bỏ phiếu cho một ứng cử viên trong một cuộc họp kín thông qua bầu chọn đại biểu dự đại hội đảng, những người cam kết ủng hộ ứng cử viên này hoặc ứng cử viên kia.

Từ những năm 1970, ngay trước khi diễn ra đại hội đảng người ta đã biết ai là ứng cử viên tổng thống. Do vậy, các đại hội đảng nhìn chung chỉ là các sự kiện mang tính hình thức.

Vận động tranh cử: Sức hút của các cuộc tranh luận trực tiếp

Sau đại hội đảng, ứng viên duy nhất của đảng Cộng hòa và Dân chủ mới bắt đầu trực tiếp đối đầu trong cuộc chạy đua. Họ sẽ chi những khoản tiền khổng lồ cho hoạt động quảng bá và cho một loạt các cuộc vận động ở các bang. Thời điểm này, một trong những hoạt động gây chú ý nhiều nhất là các cuộc tranh luận trên truyền hình giữa các ứng viên. Các ứng viên độc lập không thuộc đảng Cộng hòa hoặc Dân chủ cũng có thể tiến hành tranh luận trên truyền hình nhưng không bắt buộc.

Ngày bầu cử: Không phải ngày lựa chọn tổng thống

Bầu cử tổng thống ở Mỹ thường được tổ chức vào ngày thứ ba đầu tiên của tháng 11. Tuy nhiên, vào ngày này, cử tri Mỹ không lựa chọn tổng thống mà lựa chọn các đại diện cử tri hay còn gọi là đại cử tri, tức những người đã tuyên bố rõ ủng hộ ứng viên này hay ứng viên kia. Những đại cử tri hợp thành Cử tri đoàn (Electoral College). Tùy thuộc vào dân số mà mỗi bang của Mỹ có một số nhất định đại cử tri trong Cử tri đoàn này. Do đó ở hầu hết các bang, ứng viên nào được nhiều nhất phiếu phổ thông (popular vote) thì cũng nhận được toàn bộ phiếu của Cử tri đoàn (Electoral College) bang đó. Tổng cộng nước Mỹ có 538 đại cử tri trong Cử tri đoàn. Để trở thành tổng thống, một ứng viên cần hội đủ tối thiểu 270 phiếu trong Cử tri đoàn.

Quốc Đạt