Sứ thần vì quốc thể

Vân Long 20/08/2012 08:46

Đọc sử liệu (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia) ta thấy ghi: ngày 30 tháng 12 năm Dương Hòa thứ 3 đời Hậu Lê (1637), Phúc Lộc Hầu Giang Văn Minh và Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được vua cử làm chánh sứ cùng với bốn phó sứ Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê dẫn đầu, hai sứ bộ sang cầu phong và tuế cống nhà Minh.

Hiện tình lúc đó, nhà Mạc thua chạy lên Cao Bằng, cầm cự với triều Hậu Lê. Nhà Minh áp dụng chính sách ngọai giao hai mặt, mục đích muốn kéo dài cuộc chiến Lê Mạc để nước ta suy yếu, nên vua Sùng Trinh (Minh Tư Tông Chu Do Kiểm) lấy lý do: Vì lệ cũ không có quy định cụ thể cho việc sắc phong, do đó khi chờ tra cứu chỉ ban sắc thư để tưởng lệ (hòng ngăn trở hai sự việc triều đình ta yêu cầu: công nhận sự chính thống của nhà Hậu Lê và bác bỏ ngọai giao với nhà Mạc).

Việc thảm sát sứ thần Giang Văn Minh xảy ra vào ngày 2 tháng 6 Kỷ Mão (1639): gắn trám đường vào miệng và mắt ông, mổ bụng xem to gan lớn mật đến đâu, nhưng cuối cùng vẫn tỏ ý tôn trọng cho ướp xác bằng bột thủy ngân và cho đưa thi hài về nước.

Sử liệu ghi khá rõ và chi tiết về vị chánh sứ Giang Văn Minh, ghi khá rõ cả danh tính, tước vị chánh sứ thứ hai Nguyễn Duy Hiểu và bốn phó sứ của hai sứ đoàn Việt, chỉ rất ít tài liệu ghi lại, hoặc chưa ghi trong Bách Khoa toàn thư mở số phận của vị chánh sứ thứ hai: Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu.

Minh họa của Nhật Song
Minh họa của Nhật Song

Dũng cảm can gián

Nhân Ngày Nhà giáo VN 20.11.2011, tôi được dự lễ trao Giải thưởng Nguyễn Duy Thì ở ngay trường trung học phổ thông mang tên cụ (thuộc xã Gia Khánh, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc, chỉ cách ngôi đền chính của vị danh thần đời Lê Trung hưng này khoảng 15 km thuộc xã Yên Lãng, huyện Yên Lãng, Vĩnh Phúc). Giải thưởng do hậu duệ của cụ Nguyễn là các ông Nguyễn Duy Mùi, Nguyễn An Kiều đại diện dòng họ lập ra để tưởng nhớ cụ và hàng năm khích lệ các em học sinh học giỏi của trường (mà bản thân sự đỗ đạt vinh thăng của cha con cụ đã là tấm gương sáng. Cụ Nguyễn Duy Thì chính là thân phụ của vị sứ thần Nguyễn Duy Hiểu nói trên: cả hai cha con đều thi đỗ tiến sĩ vào năm 26 tuổi).

Tìm hiểu thêm trong cuốn Các vị tư nghiệp và tế tửu Quốc tử giám tôi được biết thêm: “… Ngót 30 năm phục vụ triều đình, người thời bấy giờ trông cậy, tôn kính cụ: cụ thọ 81 tuổi. Nguyễn Duy Thì là một tể tướng danh tiếng thời Lê Trịnh, được danh sĩ Phạm Đình Hổ viết trong Tang thương ngẫu lục: “Ông luôn giữ mình ngay thẳng và khéo thay đổi được ý vua - chúa”.

Thí dụ một buổi, ông đang về nghỉ ở quê Yên Lãng, nghe tin Chúa Thanh vương Trịnh Tráng ngự thuyền rồng đi kinh lý Sơn Tây, tiện đường muốn rẽ vào làng Mông Phụ thăm nhà một bà phi đang được Chúa yêu dấu. Đoàn tùy tùng của Chúa tiền hô hậu ủng cờ xí rợp trời, thanh thế uy nghi, lại ngẫu hứng rẽ vào thăm nhà một phi tần. Ông nghe tin, không khỏi bất bình, khi Chúa qua hạt Yên Lãng, đã ra phục lạy ở bến sông, tâu: “Nay bốn phương không giặc giã, sao lại vì một người đàn bà mà làm nhọc đến sáu quân, như vậy quốc thể còn ra sao nữa?” Chúa nghe, biết ông nói phải, đang ngần ngừ chưa ra lệnh hồi loan thì ông đã truyền cho quân sĩ không được bơi thuyền tiến lên nữa, trái lệnh sẽ trị tội theo quân pháp.

Đó là một hành động thật dũng cảm, cùng lúc làm phật ý Chúa và gây thù oán với bà phi đang được Chúa yêu vì. Tể tướng Nguyễn Duy Thì còn nổi tiếng vì luôn có hành động can gián vua chúa, bênh vực bách tính, như vụ cứu được dân các làng Thạch Đà, Đình Xá… khỏi bị quân đội triều đình bức hại.

Chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu: “vì nước yên nghỉ”

Trong cuốn Các vị tư nghiệp và tế tửu Văn Miếu Quốc Tử Giám ghi khá chi tiết: “Nguyễn Duy Hiểu (1602 - 1639) là con trưởng cụ Nguyễn Duy Thì, cùng đỗ tiến sĩ năm 26 tuổi, khoa thi năm Mậu Thìn (1628) cùng khoa với Thám hoa Giang Văn Minh… Cả hai đều có tên trên bia đá Văn Miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội (bia số 32)… Năm 1637, được cử làm chánh sứ một đoàn đi tuế cống nhà Minh, cùng đi với sứ đoàn do cụ Giang Văn Minh làm chánh sứ, cả hai chánh sứ đều đã hy sinh (1639), và có ghi trong sách Đăng khoa lục”.

Sử liệu ghi: linh cữu chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu (mất năm ba mươi bảy tuổi) do chính cha ông, quận công Nguyễn Duy Thì (sáu mươi bảy tuổi), được lệnh nhà vua dẫn một đoàn lên cửa quan đón thi hài cả hai chánh sứ về. Hiện đền thờ cụ Nguyễn Duy Thì có gian bên bày bàn thờ cụ Nguyễn Duy Hiểu còn lưu giữ bảy đạo sắc phong đời vua Lê Thần Tông, có đạo ghi:

“Sắc Nguyễn Duy Hiểu… đặc tiến Kim Tử Vinh Lộc đại phu, do vâng mệnh đi Bắc sứ tuế cống, bị bức hại nên đã chết thảm thương, có công lao vì nước mà yên nghỉ khi đang tại chức, nên gia tặng chức Thị lang Bộ Hình, tước Hầu…” (Các vị tư nghiệp và tế tửu Quốc Tử Giám).

Giai thoại về Thám hoa Giang Văn Minh có lẽ không người Việt nào không biết: giữa triều đình nhà Minh, khi vua Sùng Trinh muốn làm nhục sứ thần ta bằng cách ra vế đối: Đồng trụ chí kim đài dĩ lục (Cột đồng trụ đến nay rêu đã xanh, nhắc đến cột đồng Mã Viện chôn sau khi đánh thắng Hai Bà Trưng, với lời nguyền: Cột đồng này gẫy thì dân Giao Chỉ sẽ bị diệt vong). Chánh sứ Giang Văn Minh trước mặt sứ thần các nước và triều đình nhà Minh đã hiên ngang đối lại: Đằng Giang tự cổ huyết do hồng (Sông Bạch Đằng tự xưa còn đỏ máu, nhắc nhà Minh về ba lần quân phương Bắc bị thua trận trên sông Bạch Đằng). Vua Sùng Trinh bị hạ nhục đã bất chấp mọi quy định bang giao, mà sai giết cụ.

Về chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu, tuy sử liệu không ghi chi tiết về nguyên do cái chết, nhưng ta thừa biết với cùng một ông vua Sùng Trinh luôn hạ nhục sứ thần, cùng một thời điểm xảy ra vụ bị Giang Văn Minh làm nhục, cách ứng xử của vua Minh với chánh sứ Nguyễn sao có thể khác! Cũng không thể khác khi sứ giả Nguyễn Duy Hiểu cũng biết giữ quốc thể không kém người đồng cấp, đồng nhiệm Giang Văn Minh khi bị vua Minh xúc phạm! Vì vậy ông mới bị bức hại và nhận cái chết thảm thương như lời văn trong đạo sắc phong của vua Lê Thần Tông trích dẫn ở trên!

Chánh sứ Giang Văn Minh sở dĩ được truyền tụng là nhờ giai thoại với vế đối nổi tiếng kể trên, tức đã có văn để tải sử, dễ nhớ dễ thuộc. Nhưng tôi thiết nghĩ không vì thiếu giai thoại để lại mà cái chết vì bảo vệ danh diện quốc gia của chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu kém phần khí tiết!

Một điều đáng quý của dòng họ này là nhiều thế hệ có người tài đóng góp cho nền văn hóa dân tộc và cả trên lĩnh vực quân sự: cụ Nguyễn Duy Thì được phong thượng thư Bộ Binh trước khi vinh thăng Thái tể (tể tướng).

Trong blog của mình, nhà nghiên cứu Hán Nôm Ngô Đức Thọ còn cho biết nhiều chi tiết khác qua công trình nghiên cứu của ông: cụ tổ bốn đời về trước của Nguyễn Duy Hiểu là Hoàng Giáp Nguyễn Duy Tường, đỗ đại khoa thời Lê Thánh Tông (1508), cũng từng đi sứ sang nhà Minh. Khi Mạc Đăng Dung đoạt ngôi nhà Lê, ông cùng một số nhà khoa bảng dấy binh chống lại. Thế cô, lực yếu, hương binh của ông bị quân Mạc Đăng Dung đánh bại, ông tử trận. Vậy là khi quốc biến, văn thần trở thành võ tướng.

Ngược dòng phả hệ, cụ tổ năm đời về trước của Hoàng giáp Nguyễn Duy Hiểu, là một vị khoa bảng tài năng: cụ Nguyễn Bảo Khuê, mà tài thơ đã được vua Lê Thánh Tông vời tham gia Tao Đàn nhị thập bát tú, ngày đêm bàn chuyện văn chương với ông vua thi sĩ.

Đến thời hiện đại, con cháu dòng họ này vẫn tiếp nối những đóng góp vẻ vang như họa sư Nam Sơn Nguyễn Vạn Thọ, người đồng sáng lập với danh họa Victor Tardieu trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1925, mà kỹ sư Nguyễn An Kiều, một doanh nhân đại diện cho chi nhánh Điện lực Alstom (Pháp) là người nối dõi, gần đây thành lập giải thưởng hằng năm Nguyễn Duy Thì cho trường phổ thông trung học mang tên cụ.

Tôi có cùng ý nghĩ với nhà nghiên cứu Hán Nôm Ngô Đức Thọ: chúng ta cần có sự đánh giá công bằng với vị sứ thần Nguyễn Duy Hiểu mà khí tiết chẳng hề kém sứ thần Giang Văn Minh. Chỉ có điều đáng tiếc: hình như kho sách cổ của chúng ta không còn lưu giữ được tập văn thơ nào của cả hai vị sứ thần “bất nhục quân mệnh” này!

Vân Long