Đá quý (Phần 1)
Truyện của Nguyễn Trí
![]() Minh họa của Đặng Hồng Quân |
Cái đầu thò ra cửa sổ, ria mép tỉa tót cực cẩn thận. Thu, thường gọi Thu-râu-kẽm hỏi:
- Ai? Ủa… hai vợ chồng mày hả? Vô đi, chờ tao tí.
Của lớn mở. Gia chủ xuống nhà sau, vừa đi vừa làu bàu:
- Mẹ ơi… tao ngủ đã đời luôn, không có hai vợ chồng mày chắc tao về dưới luôn quá.
Quần soóc, ở trần. Râu vạm vỡ, ngực nở eo thon. Bếp ga mini đặt lên bàn, tay cầm bình trà:
- Có gì không? Sao hai đứa biết tao về mà tới?
- Dạ… em…
- Tiền phải không? Cần bao nhiêu? Để làm gì? Con Vân nói tao nghe.
Dạ - phụ nữ tên Vân lí nhí – tháng trước em bị ruột thừa, không tiền nên vay của Hoàng-ngọng chục triệu, bạc mười hai. Quá hạn năm ngày, hai vợ chồng em kẹt quá, không tiền đóng lãi thành…
- Nó hăm hai vợ chồng mày chớ gì? Được rồi…
Thu râu lấy cái di động:
- Ngồi đi, trà Thái Nguyên đặc biệt đó, tao đích thân vô tận vườn mua… A lô… Hoàng hả? Tao… Thu râu đây… Có mới gọi cho mày chớ. Mày biết thằng Sinh-trọc ở Long Mỹ không? Ừ… nó em tao… kết nghĩa thôi… Tao làm gì có thịt mà ruột với rà… Tao mới về, nghe nói thằng em vay mày chục triệu, mày có thằng đệ nào kêu nó lên Long Mỹ tao trả, tính cả vốn lẫn lời nghe, em tao nói trễ năm ngày mày cứ tính hai tháng… Thôi khách sáo khỉ mẹ gì, sòng phẳng mới lâu dài. Không lấy lời, lỡ kẹt làm sao tao dám gặp mày nhờ giúp đỡ, đúng hông? Mười triệu năm trăm hả? Rồi, bi nhiêu thì bi. Cho đệ mày lên đây.
- Rồi đó – Thu râu lấy cái quần dài, lôi cái bóp dầy cộp toàn giấy năm trăm ngàn. Đếm và thẩy tiền lên bàn:
- Mười lăm triệu đó. Con Vân về, để thằng Sinh lại uống với tao vài ly… Không sao đâu, đệ tử Hoàng-ngọng lên, mày có đưa mười hai triệu nó cũng không dám lấy đâu mà sợ… Hoàng-ngọng hồi ở tù trên Kim Sơn, không có tao bao che là nó chết với bạn tù vì tội chỉ điểm, nó không dám giỡn với tao đâu.
Vân lí nhí:
- Em cám ơn anh… Em lấy mười triệu thôi, thiếu anh nhiều quá rồi…
- Cô thiệt là… Đã kẹt còn phơ phào. Cứ lấy giải quyết cái trước mắt. Tao cho mượn, kẹt là tao đòi, có bây phải trả, tao đâu có cho không, tiền tao là tiền trèo đèo lội suối, đâu có lật đít ông Phật mà lấy, hiểu chưa?
Thu-râu theo Vân ra cửa. Hú vọng qua đường:
- Ê… Tám-thẹo… Lấy cho xị rượu nếp nghe.
Một giọng khác vang lên:
- Ủa… anh Ba hả? Về hồi nào dzậy? Qua liền đây.
Chủ quán Tám-thẹo mang sang đầy chai ba xị. Tên gì nghe thấy ớn. Vậy chớ hiền khô à, cái mặt có thẹo thành gọi vậy. Đời mà. Có râu gọi Thu râu. Còn sự tích? Ai chẳng có, như ngài Nguyễn Du nói mỗi người một nghiệp khác nhau…
Râu khệ nệ bưng lên một bình thủy tinh loại mười lít, đặt lên bàn. Tám-thẹo và Sinh-trọc trố mắt nhìn.
Nước trong bình, màu hổ phách. Một con hổ mang được tạo hình cực cẩn thận, phùng mang, cuộn tròn trên một lô thuốc bắc, còn có thêm ba con chim gì đó nữa. Tám-thẹo kêu lên:
- Bà nội tui ơi… Ở đâu ra vậy anh ba? Ngày nào em cũng qua quét dọn mà có thấy đâu?
Hà… hà… tao chôn dưới đất lấy đâu mà thấy. Hồi khuya về tao moi lên ngắm chơi. Đẹp hông? Tuyệt vời hông?
Hai vị khách cùng chép miệng:
- Còn mấy con chim gì đây?
- Bìm bịp. Tất cả đều thượng hảo hạng. Thuốc thầy tao cắt, rắn tao bắt, mấy con chim, thằng bạn người Châu Ro tặng. Rượu năm mươi độ cồn. Tao phải tốn một tạ nếp để lấy đúng mười lít. Rượu ngâm thuốc phải vậy.
- Ông chịu chơi thiệt à.
Râu tự mãn:
- Tao không chơi thì thôi, đã chơi phải liễu chán hoa chê, lăn lóc đá, mê mẫn đời tao mới chịu
Sinh-trọc:
- Con hổ mang nầy anh tạo hình không đẹp lắm, lại đen thui, không đẹp như mấy con bày bán của mấy tay mãi võ.
- Ừ, tại tao vớ được em nầy vào mùa mưa ở bãi vàng trăm lẻ bảy.
- Lẻ bảy ở đâu vậy anh ba?
- Ở Định Quán Đồng Nai. Bãi nằm trên đỉnh cao đồi đất đỏ, gần rừng cấm Nam Cát Tiên. Tao theo chủ hầm đi săn, hạ được em nầy.
- Bắt hay bắn?
- Ông nội ai dám bắt, thứ nầy nó chơi một phát là đông máu liền. Tao cho nó một phát nỏ.
- Anh biết bắn nỏ à?
- Tao được mấy tay Châu Ro dạy. Rừng đồi đất đỏ nhiều thú lắm, tối nào bọn tao cũng có vài con cheo, đôi con nhím, cả heo rừng… Đêm đó tao đội đèn đi trước, chủ hầm Lâm-phà theo sau, đèn bắt trúng mắt con nầy, nhìn là ớn lạnh. Nó to bằng cổ tay, mang bành ra tầm bốn mươi phân, lè lưỡi phun phì phì. Tên sẵn sàng trên cánh nỏ, tao ngồi xuống nheo một phát. “Tạch”, mũi tên xuyên qua đầu… Tao và Lâm-phà đứng nhìn con rắn giẫy cả tiếng đồng hồ, dai sức ác liệt luôn, nó không thể lướt đi vì mũi tên nằm ngang đầu… Đợi nằm yên tao mới dám thò tay bắt, Lâm-phà run như cầy sấy… Nhiêu khê lắm mới vô được cái bình nầy. Đâu phải dễ, không biết làm là hư. Muốn ngâm con gì cũng phải sạch sẽ, khô khan. Ở rừng nguyên sinh lấy đâu ra nắng mà phơi? Lại mùa mưa… Tao phải sấy.
- Sấy làm sao hả anh?
- Dân khai thác mây tre lá, đóng trại gần bãi vàng. Tao sấy bằng đầu mà.
- Đầu mà là đầu gì?
- Người ta cưa lồ ô, bỏ mắt, chỉ lấy ống để chẻ tăm nhang xuất khẩu, cái mắt gọi là đầu mà, miền trung gọi đầu đày hoặc đầu năm. Đầu mà khô làm chất đốt, đượm lửa, than nhiều. Mình đốt một đống cho lớn, chờ tàn ngọn, còn than, kê vỉ sắt để sấy thịt rừng. Vậy đó.
- Có vỉ sắt à?
Chủ thầu mây tre lá kéo hàng bằng Jin130. Đồi đất đỏ chỉ có reo nhì máy bảy hoặc ba cầu sáu máy mới lên nổi, mình nhờ cánh tài xế lo cho cái vỉ sắt, trả lại bằng thịt rừng sấy khô… Uống, Tám thẹo… Rượu này trị bá chứng đó nghe, chai ba xị nầy chỉ được hòa hai ly xây chừng, cà chớn uống nhiều là chết chắc.
Tám-thẹo nhấp môi:
- Mẹ ơi… quá là thơm đi. Bình rượu nầy chủ trị cái gì anh Ba?
- Đủ. Thần kinh tọa, nhức mỏi, phong tê thấp… Đặc biệt… hà hà… cái chìa khóa luôn sẵn sàng để mở cửa thiên đường.
- Ông không vợ, cần gì ba thứ nầy?
- Người tình để chi mậy? Có em yêu tao da diết lắm a con.
Sinh trọc lên tiếng:
- Anh ba nè… Anh đi bốn phương tám hướng, làm trầm, đãi vàng, đá quý. Em hỏi câu nầy được không?
- Hỏi. Biết tao nói, không biết thì thôi à.
- Làm sao biết chỗ nào có vàng, đá quý mà đào đãi?
Râu kẽm trầm ngâm hơi lâu lâu, rồi chiêu một hớp rượu:
- Cũng không khó hiểu lắm. Theo tao, trong thời nầy nó bắt đầu từ mấy tay bộ đội giải phóng miền Nam.
Ở rừng miền Đông, nơi nào không có mặt bộ đội. Họ đào hầm tránh pháo rồi tình cờ phát hiện. Sau thống nhất, kinh tế khó khăn. Có thể trong lúc trà dư tửu hậu, họ kháo nhau nghe, lọt tai mấy thằng giang hồ vặt, có mộng lớn. Bãi Hiếu Liêm là một ví dụ, muốn đến phải đi qua thị xã Vĩnh An. Rồi phi 125 phân khối qua vô số lâm trường, chạy mịt mù sương khói mới tới bãi Móng Bò, lại thêm sương khói mịt mù mới tới bãi Cây Sao, nếu không có mấy tay bộ đội từng đi qua làm sao biết mà đào? Dân khai thác thủ công lần theo, dự đoán thế đất rồi hú họa mà ra bãi… Các bãi, luồng bổi có vàng nằm ngang, xẻ taluy lấy bổi dễ ẹc. Riêng bãi đồi đất đỏ bổi ăn xuống, Ai yếu bóng vía không dám ghé mắt nhìn qua.
- Như đào giếng hả anh?
- Đào giếng là trẻ con, Cứ thẳng băng mà xuống, đằng này đã xuống nó lại còn ăn nghiêng. May là thế đất ở đó không lở như ở Hiếu Liêm. Không cừ kèo, chỉ nối cây làm thang đi xuống. Hồi ở Suối Nho, Định Quán, Đồng Nai, tao từng đào giếng tưới cà phê. Cái giếng đường kính một mét, xuống khoảng mười mét đụng mạch nước là bung ra, cứ xuống hai mươi phân phải bung ra hai mươi, cho đến khi đường kính đáy phải trên năm mét. Xuống những cái giếng đó, phải có trái mật tầm Kinh Kha… nhưng, hầm ở lẻ bảy xuống là cứ nghĩ mình đang du hành địa ngục. Phải hận cái nghèo tầm khủng mới liều thân.
- Còn đá quý, em nghe cũng có bãi.
- Trầm hương còn có cả lán, nói gì đá quý. Nhưng cái vụ đá quý – theo tao – bắt nguồn từ mấy tay tìm trầm. Mòn chân trên những đỉnh cao của ba nước Đông Dương, qua trăm vạn bản làng của các dân tộc, tao đã từng chứng kiến các em sơn nữ đãi vàng trên suối, đôi khi trong mâm có đá xanh đỏ tím vàng, loại đá xô để xem chơi cho vui mắt. Dân trầm hương tinh như cáo núi. Câu hỏi được đặt ra. Sao không đãi trên kia? Sao không đãi dưới đó? Trên và dưới không có. Vậy tại sao khúc sông, đoạn suối nầy có? À vậy là vỉa có đá quý nằm ven đồi bị nước ngầm tống ra. Dân đi địu mo quá chịu không xiết, nên tổ chức sắm chuyến, mang xà beng cuốc xẻng đào xuống… Vậy là ra bãi đá quý.
- Em nghe nói có cả kim cương, hồng ngọc.
- Nghe thì có cả một cái hầm, chỉ cần kêu vừng ơi mở ra là lòi cả đống kim cương… Hà hà… khổ lắm, chua chát lắm. Đời tao đi qua cả chục bãi vàng, dăm bảy bãi đá quý, chưa bao giờ mục sở thị một viên hồng Ngọc nói gì đến kim cương
- Xứ mình có đá gì? Làm sao biết quý hay không?
- Đá quý dễ nhận ra lắm… Thiên hạ bám theo, cố săn cho được vì có kẻ đã đổi đời nhờ vô mánh, cùng lắm cũng có đá xô cứu đói.
- Sao lại gọi đá xô?
- Là loại đất hỡi trời ơi, cũng màu mè nhưng là đá chết, hoặc kéo mây, chỉ để bán cho dân làm trang sức giả, thứ bông tai, nhẫn hạt cả nong ngoài chợ. Nhưng nếu là quý, viên đá sẽ lấp loáng hào quang, phớt qua ta thấy đời ta hoa đã nở. Lắm giang hồ hảo hớn theo nghiệp mà chỉ kiếm cơm ở đá xô, thấy nước mắt chứ chưa hề nhận diện nụ cười của đá.
- Còn anh?
- Tao thì nụ cười và nước mắt trộn chung. Kỳ đó tao làm trưởng một “mâm” sáu thằng, dạng vai u thịt bắp, võ nghệ cũng kha khá, tuy chẳng đâm cha chém chú, nhưng cũng ác chiến lắm. Tao với Hùng Chí Mỹ lo lương ăn và đồ nghề cho anh em. Tất nhiên là dùng uy tín để thiếu chịu. Tàn một cuộc phiêu lưu là thanh toán. Lỡ mo tao với Chí Mỹ lãnh đạn.
- Hùng nào anh Ba? Phải thằng hồi trước bị tù vì ăn bay…
- Nó chớ ai, tao thân với nó trong tù.
Sinh-trọc:
- Em hỏi anh câu nầy, đừng tự ái nghe.
- OK.
- Vì sao anh bị tù?
- Khà… Năm tao hai hai, yêu một em tên Hồng. Bà già khăn gói đi hỏi. Hỏi xong tao ngồi tính đám cưới, dự trù nuôi cặp heo. Một làm tiệc, một lo cho em cái áo cưới. Quê tao nghèo lắm, tao nghèo nhứt hạng. Không tiền mua heo giống, thằng Nhơn Hạnh rủ tao nhập nha. Tao đã từ chối rồi, nhưng nó nói tao ở ngoài cảnh giới, vụ vô nhà để nó lo. Tao liều một phen, chôm được cái đầu máy may, hồi đó có giá lắm nghe. Con Hạnh vợ thằng Nhơn đem xuống chợ thị xã bán bị công an bắt quả tang.
- Sao công an biết?
- Là do mẹ Chín say. Lão Chín say xỉn lên quăng lựu đạn ào ào, tao ghét phang cho bạt tai. Mẹ Chín rắp tâm trả thù. Đêm đó thấy tao lảng vảng, hôm sau nghe láng giềng mất trộm, đoán ngay tao, mẹ âm thầm báo công an. Bị bắt con Hạnh khai sạch. Thấy hoàn cảnh hai vợ chồng nó bi quá, tao đứng ra chịu. Cái đầu máy may mà tao trả ba năm bốn tháng trong trại cải tạo Kim Sơn… Vậy đó, ở trại tao gặp Hùng Chí Mỹ, cùng quê nên kết anh em.
- Hiểu rồi. Còn vụ đá quý?
- Tao, Chí-Mỹ, Lộc-Đen. Thành-Võ, Châu-Ú và Sáu-Râu chung một mâm.
- Sao lại gọi mâm?
- Trầm gọi Bầu. Vàng gọi Băng. Đá quý gọi Mâm.
(Số sau đăng tiếp)