ĐBQH K`KRáh (Đăk Nông): Linh hoạt trong áp dụng biện pháp cưỡng chế
Theo quy định hiện nay, tất cả các đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng từ đối tượng khai theo từng lần phát sinh và khai thuế theo phương pháp khoán đều thực hiện khai thuế theo tháng.

Hiện nay, Chính phủ đang đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa tập trung cho sản xuất kinh doanh, do đó, cần quy định rõ trong Luật Quản lý thuế trường hợp được khai thuế theo tháng, quý có thể dựa vào điều kiện số thuế phát sinh lớn, số nộp thuế và số còn được khấu trừ để quy định doanh nghiệp khai theo tháng, ngược lại thì khai theo quý hoặc 2 quý.
Về cơ chế thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá trong chống chuyển giá, cần bổ sung chức năng điều tra cho cơ quan thuế trong Luật Quản lý thuế về chống chuyển giá vì hiện nay tình trạng chuyển giá của các doanh nghiệp liên kết trong và ngoài nước rất phổ biến gây thất thu lớn về thuế.
Đối với trường hợp ứng dụng công nghệ thông tin ở Điểm 4, Điều 1 trong dự thảo Luật có nêu người nộp thuế đủ khả năng ứng dụng công nghệ thông tin phải thực hiện quản lý dùng hóa đơn kê khai nộp thuế, giao dịch với cơ quan quản lý thuế thông qua phương tiện điện tử theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử, đề nghị cần quy định rõ trong luật.
Thuế giá trị gia tăng là loại thuế gián thu, người tiêu dùng cuối cùng chịu, cho nên việc các công ty, doanh nghiệp nợ thuế giá trị gia tăng không thể coi là hành vi chậm nộp tiền thuế mà nên đưa vào hành vi chiếm dụng tiền thuế. Ở Điều 106 đối với chậm nộp tiền thuế, tiền phạt nộp chậm mức cũ là 0,05%/ngày nay điều chỉnh thành 0,07%/ngày, tương đương với 25,6%/năm. Đồng thời, việc truy thu thiếu thuế, khai thiếu phạt mức cũ là 10% nay mức mới là 20%, như vậy liệu có cao quá không, có phải mang tính răn đe không? Đề nghị UBTVQH, cơ quan soạn thảo cần xem xét cân nhắc.
Về đối tượng được xóa nợ tiền thuế, tiền phạt, luật hiện hành quy định cho phép xóa nợ tiền thuế, tiền phạt kinh doanh, tiền phạt khi doanh nghiệp tuyên bố phá sản, cá nhân được pháp luật coi là đã chết, mất tích. Trên thực tế phạm vi xóa nợ là quá hẹp và chưa phản ánh được thực tế khách quan về những trường hợp nợ xấu, khó có khả năng thu đòi, các trường hợp không còn xác định được đối tượng để thu, cụ thể như doanh nghiệp làm ăn thua lỗ đã giải thể, phá sản, không còn ở nơi đăng ký nộp thuế, không còn hoạt động sản xuất kinh doanh, nợ thuế của doanh nghiệp nhà nước đã có quyết định giải thể, doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi sở hữu chưa được xử lý nợ thuế, pháp nhân mới không được giao chịu trách nhiệm tiếp tục nộp các khoản nợ thuế này, các hộ kinh doanh nhỏ lẻ làm ăn thua lỗ đã bỏ kinh doanh, nợ thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất do ủy nhiệm thu chiếm dụng đến nay đã mất tích hoặc bị xử lý hình sự. Đề nghị cần xem xét quy định rõ trong luật việc xóa nợ đối với các đối tượng nêu trên.
Theo quy định từ Điều 91 đến Điều 102 của Luật Quản lý thuế, dự thảo Luật đề cập việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phù hợp để bảo đảm thu hồi nợ thuế kịp thời cho ngân sách nhà nước. Đề nghị Luật Quản lý thuế sửa đổi, bổ sung cần nêu rõ về thẩm quyền người ra quyết định cưỡng chế được quyết định một cách linh hoạt trong áp dụng biện pháp cưỡng chế phù hợp để thu hồi nợ thuế kịp thời cho ngân sách nhà nước, không nhất thiết phải theo trình tự qua từng bước.