Chủ nghĩa hợp hiến - giới hạn của quyền lực
Có một câu chuyện kể rằng, loài ếch cần một trật tự để sinh tồn nhưng Thượng đế lại sai rắn duy trì trật tự cho ếch. Nếu không có rắn, ếch sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn vì không có người duy trì trật tự; nhưng bản thân rắn cũng lại là một mối nguy hại đối với ếch, có thể thôn tính ếch. Tương tự như vậy, loài người phải cần đến quyền lực nhà nước để duy trì một đời sống trật tự và phát triển; nhưng loài người cũng lại phải đối mặt với những tác hại mà quyền lực nhà nước mang đến.
Quyền lực nhà nước khi bị tha hóa sẽ trở thành công cụ thỏa mãn lợi ích của những người nắm giữ và quay trở lại trấn áp xã hội: chính quyền chủ nô coi người bị trị như những công cụ biết nói; chính quyền phong kiến đàn áp đẫm máu các cuộc nổi dậy của nông dân; tham nhũng đang lan tỏa như một bệnh dịch toàn cầu… Sự nguy hiểm của quyền lực nhà nước gắn với bản chất của nó. Thuộc tính của quyền lực là lạm quyền. Ai có quyền lực cũng có xu hướng lạm quyền. Hobbes, một triết gia lớn người Anh đã nói: “Trước hết, tôi kể trong xu hướng tổng quát của tất cả nhân loại, một sự thèm khát thường trực và không nguôi hết quyền lực này đến quyền lực khác và sự thèm khát ấy chỉ chấm dứt với cái chết mà thôi. Khát vọng quyền lực không phải chỉ giới hạn trong một số ít người có tham vọng, mà nó hiện hữu phổ biến ở tất cả mọi người”. Đối với quyền lực chính trị thì nguy cơ lạm quyền lại càng cao vì đây là một thứ quyền lực có tác động phổ biến nhất trong xã hội và đem lại lợi ích cho người nắm giữ quyền lực nhiều nhất.
![]() |
Nỗi nguy hiểm của quyền lực nhà nước đã đánh thức lương tâm nhân loại. Từ rất sớm, khi quyền lực nhà nước mới được hình thành thì con người đã nghĩ đến những phương kế để chống lại sự tha hóa của quyền lực. Từ những yêu sách đối với đạo đức của nhà cầm quyền đến những định chế giám sát kiểu như Ngự sử đài đều là những giải pháp để chống lại sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Xã hội ngày càng tiến bộ, suy nghĩ của loài người về các biện pháp kiểm soát quyền lực ngày càng hoàn thiện hơn. Theo dòng phát triển đó, chủ nghĩa hợp hiến đã ra đời với những ý tưởng cách mạng về kiểm soát quyền lực nhà nước.
Chủ nghĩa hợp hiến là “khái niệm về một chính quyền hữu hạn mà thẩm quyền tối hậu của nó là tuân theo sự đồng ý của nhân dân”. Hay “Hiến pháp thường được định nghĩa là tổng thể các quy tắc thành văn hoặc bất thành văn, pháp lý hay siêu pháp quy định về chính quyền và sự vận hành của nó. Tuy nhiên, có những ý tưởng về sự hạn chế nằm trong danh từ hiến pháp - ý tưởng về hiến pháp như một sự sắp đặt không chỉ quy định mà còn giới hạn chính quyền, ít nhất là trong những hoạt động hàng ngày của nó”. Sự giới hạn đó được gọi là chủ nghĩa hợp hiến. “Chủ nghĩa hợp hiến dân chủ - dựa trên ý tưởng về các quyền cá nhân và các quyền cộng đồng, và giới hạn quyền lực của chính quyền - tạo lập khung điều chỉnh một nền dân chủ. Chủ nghĩa hợp hiến nhận thức rằng một chính quyền dân chủ và có trách nhiệm phải đi liền với những giới hạn mang tính định chế đối với quyền lực của chính quyền”.
Một học giả Trung Quốc trên cơ sở nghiên cứu quan niệm về chủ nghĩa hợp hiến đã đưa ra định nghĩa mang tính chất diễn giải về chủ nghĩa hợp hiến: “Chủ nghĩa hợp hiến nghĩa là một hệ thống các sắp xếp về chính trị, theo đó có một đạo luật tối cao (thường được gọi là hiến pháp), toàn bộ hệ thống chính quyền được điều chỉnh bởi hiến pháp, chỉ có ý chí của nhân dân (thường được xác định thông qua một quy trình đặc biệt có từ trước, thường thông qua cơ chế bỏ phiếu đa số tuyệt đối) mới có thể hủy bỏ hoặc thay đổi đạo luật tối cao đó, sự thay đổi phải được tiến hành theo một quy trình khó khăn với sự ủng hộ của đa số, có sự phân quyền và kìm chế, đối trọng quyền lực, và một hệ thống tư pháp độc lập tài phán về các tranh chấp pháp lý để bảo vệ hiến pháp”.
Như vậy, dù có thể có những cách định nghĩa, cách quan niệm khác nhau về chủ nghĩa hợp hiến, nhưng vấn đề bản chất của chủ nghĩa hợp hiến vẫn là giới hạn chính quyền theo một quy trình pháp lý để bảo vệ quyền con người.
Một chính quyền hợp hiến trước tiên phải là một chính quyền có hiến pháp thành văn. Ví dụ, chính quyền Mỹ được giới hạn trong khuôn khổ của bản Hiến pháp Mỹ. Tuy nhiên, một hiến pháp thành văn không phải là yếu tố quyết định một chính quyền có vận hành theo chủ nghĩa hợp hiến hay không. Chủ nghĩa hợp hiến không đồng nghĩa với một chính quyền có hiến pháp thành văn. Chính quyền hợp hiến không chỉ có nghĩa là chánh quyền hợp với điều khoản hiến pháp. Chính quyền hợp hiến là chính quyền pháp trị, không phải chính quyền chuyên chế, là chính quyền được điều khoản hiến pháp tiết chế, không phải chính quyền chỉ được tiết chế bởi sở vọng hay khả năng của người cầm quyền. Bởi vậy, có thể có trường hợp chính quyền một quốc gia được điều khiển đúng với điều khoản của hiến pháp, song hiến pháp chỉ thiết lập cơ cấu chính quyền, và phó mặc cho các cơ cấu này tự do hành động. Trường hợp như trên khó có thể coi là một chính quyền hợp hiến.
Hơn nữa, một chính quyền không có hiến pháp thành văn cũng có thể trở thành một chính quyền vận hành trên các nguyên lý của chủ nghĩa hợp hiến. Nước Anh là ví dụ điển hình cho trường hợp này. Nước Anh không có một hiến pháp thành văn đơn hành nhưng người ta đều thừa nhận rằng chính quyền của nước Anh là một chính quyền hợp hiến bởi nước Anh có nhiều văn bản có sức mạnh của hiến pháp, như: Đại hiến chương Magna Carta năm 1215, Luật về quyền (Bill of Right) năm 1689, Luật cư trú năm 1701 và những đạo luật đặc biệt của Nghị viện Anh. Những văn bản này có sức mạnh hạn chế quyền lực của nhà nước và bảo vệ các quyền tự do của con người ở nước Anh.
Yếu tố bản chất của chủ nghĩa hợp hiến là giới hạn chính quyền chứ không phải hình thức của hiến pháp. Khi chúng ta trao đổi về chính quyền hợp hiến, thực ra chúng ta không phải nói về có hay không một văn kiện đặc biệt đơn hành mà chúng ta quan tâm đến một loại hình của cách ứng xử chính trị, văn hóa chính trị, truyền thống chính trị, lịch sử chính trị… Hình thức có thể thay đổi nhưng kết quả ứng xử thì giống nhau: những giới hạn được đặt ra đối với những gì chính quyền được làm.
Chủ nghĩa hợp hiến hiện đại bắt nguồn từ những tư tưởng chính trị tự do ở Tây Âu và Mỹ. Để bảo đảm các quyền và tự do của con người, những người soạn thảo hiến pháp đã nhấn mạnh đến việc kiểm soát đối với những lĩnh vực của quyền lực nhà nước. Chính vì vậy, chủ nghĩa hợp hiến có thể được coi là sự định chế hóa chủ nghĩa tự do. Chủ nghĩa hợp hiến là sự tổ chức các định chế quyền lực theo tinh thần tự do. Chủ nghĩa hợp hiến là một chế độ chính trị tự do.
Một điều cần lưu ý là nói đến khái niệm chủ nghĩa người ta thường đề cập theo hai phương diện: một hệ thống các tư tưởng và một chế độ được tổ chức dựa trên các tư tưởng đó. ở đây, khái niệm chủ nghĩa hợp hiến có khi được đề cập đến như một hệ thống các tư tưởng về giới hạn chính quyền và bảo vệ quyền con người; có khi lại được đề cập đến một chế độ tổ chức chính quyền dựa trên tinh thần tự do, tức là giới hạn chính quyền và bảo vệ quyền con người.