Khác biệt mang tính vùng miền
Mức độ nào đó, các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam đã làm được phần việc của mình: kể câu chuyện về dân tộc mình, câu chuyện về mảnh đất mình đang sống bằng giọng nói và cách nghĩ của mình.
![]() Trên cao nguyên Hà Giang Ảnh: Nguyễn Quang Tuấn |
1. Đất nước mở cửa, ở các tỉnh Việt Bắc và Tây Bắc, song hành với sự nở rộ của thể loại thơ, văn xuôi các dân tộc thiểu số phát triển đều và rộng, với hàng loạt tác giả tên tuổi: Mã A Lềnh, Ma Trường Nguyên, Cầm Hùng, Sa Phong Ba, Hoàng Hữu Sang, La Quán Miên, Đoàn Lư… Sau mười lăm năm dò dẫm, bước sang thế kỷ XXI, văn xuôi dân tộc thiểu số và miền núi khu vực này đã tiến những bước nhảy vọt, cả về chất lẫn lượng. Trước tiên, tiểu thuyết Cửa rừng của Hoàng Hữu Sang (2000) xuất bản, tiếp theo là Bùi Minh Chức cho in Sự tích một câu nói (2001), Hà Lý với Ngọt đắng vị Mường (2002), Kha Thị Thường (Lũ núi, 2003), Bùi Thị Như Lan (Tiếng chim kỷ giàng, 2004), Sa Phong Ba (Chuyện ở chân núi Hồng Ngài, 2005), Hữu Tiến sau tập truyện ngắn Cô gái nhặt bông gạo (2004) là tiểu thuyết Dòng đời (2007) …
Sau tập truyện ngắn Hoàng hôn, Hà Trung Nghĩa chuyển sang viết tiểu thuyết với hàng loạt tác phẩm ra đời: Lửa trong rừng sa mu (1999), Gió bụi nhân gian (2001), Bão từ hai phía (2006)… Khác với Hà Trung Nghĩa, Hà Thị Cẩm Anh chuyên trị truyện ngắn. Các truyện ngắn của nhà văn này vừa tinh tế vừa đầy trải nghiệm. Cạnh đó, Cao Duy Sơn với các tác phẩm Những đám mây hình người (2002), Ngôi nhà xưa bên suối (truyện ngắn, 2007), Người chợ (2010), Chòm ba nhà (2009) đã góp cho văn xuôi dân tộc và miền núi giọng điệu mới.
Cùng với những nỗ lực cách tân thơ ca qua các tên tuổi như Y Phương, Lò Ngân Sủn, Mai Liễu, Dương Thuấn… văn xuôi các dân tộc thiểu số phía Bắc đã có chuyển biến lớn từ lối viết cổ truyền sang lối viết vận dụng nhiều yếu tố hiện đại, từ kể sang tả, từ khái quát bề mặt sang phân tích tâm lý chiều sâu, đa dạng và đa diện hơn.
2. Khác hẳn sự phát triển văn học của các dân tộc thiểu số ở phía Bắc, thể loại nổi trội nhất của các nhà văn sống ở Tây Nguyên và Nam Trung bộ, chính là văn xuôi.
Khởi đầu với Y Điêng (sinh 1928) với các tập truyện ngắn và ký: Lửa trong tay chúng tôi (2005), Sông Hinh con sông quê hương (2005)... truyện dài: Ba anh em (1996), Chuyện bên bờ sông Hinh (2001) qua Kim Nhất (sinh 1945) đi suốt hơn mươi tác phẩm từ tập truyện ngắn đầu tay Mụ Xoại (1994) cho đến tiểu thuyết Luật của rừng (2008). Rồi Linh Nga Niêkđam (sinh 1948) sau khi làm nhiều “nhà” đã trở lại với tập truyện ngắn: Con rắn màu xanh da trời (1997), Gió đỏ (2004) rồi tập bút ký: Trăng Xí Thoại (1998), Đi tìm hồn chiêng (2003).
Văn xuôi ở khu vực này vẫn nằm trong dòng chảy chung của trào lưu hiện thực xã hội. Truyện ngắn hay tiểu thuyết như thể một thứ bút ký hay ghi chép nâng cấp, từ chuyện thực trong đời thực được nhà văn hư cấu thêm, sắp xếp có lớp lang để thành truyện. Câu chuyện dài với nhiều nhân vật thì thành truyện dài, dung lượng ít hơn thì là truyện ngắn. Thế thôi! Cho nên có cảm giác chung là đọc bút ký hay ghi chép của Y Điêng hoặc Linh Nga thì thích hơn các truyện dài/ngắn của họ.
Thế hệ mới, Niê Thanh Mai (sinh 1980) xuất hiện qua ba tập truyện ngắn: Suối của rừng (2005), Về bên kia núi (2007), Ngày mai sáng rỡ ( 2010) dù có đôi nét hiện đại đề cập cuộc sống hiện đại với tâm thế của con người hiện đại, cũng không nằm ngoài dòng chảy đó. Các tác giả chưa khai lộ được các tầng sâu văn hóa vùng miền với những nét đẹp từng được nhiều nhà nghiên cứu Tây phương cho là huyền bí đầy lôi cuốn của Tây Nguyên. Họ cũng chưa phơi bày được hiện thực cuộc sống với những đảo lộn gần như toàn triệt của không gian văn hóa, môi trường tự nhiên hay đời sống tinh thần dẫn tới bao mất mát, thất thố, bất lực đang lồ lộ hằng ngày, trước mặt và xung quanh.
3. Các tác giả Chăm ở Ninh Thuận hơi khác. Trầm Ngọc Lan (sinh 1955) xuất hiện cùng với đặc san Tagalau vào đầu thế kỷ. Giọng văn tưng tửng mà lôi cuốn, có vẻ bất cần mà đẫm tình. Chỉ bằng vài nét phác sơ sài, vài đoạn đối thoại ngắn, vài quan sát như lối nhìn trẻ thơ, anh đã vẽ được chân dung của một làng quê Chăm vừa cũ vừa hiện đại, nửa như yên ắng nửa muốn làm sôi động giả tạo trong buổi giao thời nhưng cứ đặc chất Chăm. Jalau Anưk (sinh 1975) “cô đơn và những cảm xúc rối bù” trước hiện thực cuộc sống Chăm với bao biến động bất khả đoán. Dù sao, hai tác giả này vẫn còn bám “truyền thống”, chưa có được lối thử nghiệm mới nào đáng kể. Sang đến Trà Vigia, văn xuôi của tác giả Chăm mới tìm được giọng đặc thù vùng miền.
Trà Vigia (sinh 1957) vừa viết truyện ngắn, bút ký văn học vừa viết tiểu luận văn chương cổ điển Chăm. Tập truyện ngắn Chăm H’ri (2008) với sức tưởng tượng bay bổng, chi tiết ngồn ngộn nửa như lấy từ thực tế cuộc sống nửa như từ cõi mơ hồ nào đó, chúng cư trú trên làn ranh giữa thực và mộng, lồng ghép, quấn quyện đến không biết đâu mà lần. Thế mà nó cứ thực, thực còn hơn hiện tiền xảy ra hàng ngày xung quanh ta.
Chuyển từ thể loại thơ, nghiên cứu và phê bình sang tiểu thuyết, Inrasara (sinh 1957) cho ra đời hai cuốn tiểu thuyết dày dặn: Chân dung Cát (2006) và Hàng mã ký ức (2011). Đây là những chuyện kể mang tính cá nhân, địa phương, tạm bợ trong hoàn cảnh cụ thể; nó không đòi hỏi ở đó một chân lý phổ quát, ổn định và đòi hỏi tất cả mọi người tin vào nó. Chân dung Cát và Hàng mã ký ức đã thử kể câu chuyện khác về Chăm, ở đó ngoài tri thức về văn hóa xã hội Chăm, giọng khôi hài, giễu nhại hiển lộ qua từng chương sách.
4. Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng kể trong một cuộc họp với thổ dân da đỏ Canada, đại diện chính quyền tuyên bố vùng đất ở đó thuộc quyền sở hữu nhà nước. Vị trưởng lão hỏi: “Nếu đất đai là của quý ngài, thì quý ngài có câu chuyện nào kể lại cho chúng tôi nghe không?” - Không có! “Thế là vị này liền đọc một câu chuyện bằng thơ liên quan đến những sinh hoạt của người da đỏ hàng trăm năm trước, bằng tiếng địa phương, để chứng minh rằng vùng đất đó là của họ. Dù bằng chữ viết hay truyền miệng, những câu chuyện bao giờ cũng sống lâu hơn cả trong lòng chúng ta”.
Theo tinh thần câu chuyện trên, mức độ nào đó, các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam đã làm được phần việc của mình: kể câu chuyện về dân tộc mình, câu chuyện về mảnh đất mình đang sống bằng giọng nói và cách nghĩ của mình đến với độc giả các nơi.