Làm sao Mỹ phải ghét Iran
Một đất nước Iran luôn thù địch với Mỹ và phương Tây, lẽ tất nhiên thường xuyên bị đáp trả bằng sự cấm vận và trừng phạt về nhiều mặt. Mỹ và phương Tây luôn căng thẳng với Iran, bằng cách ấy, luôn đặt Iran trong tình trạng bên bờ chiến tranh, phải tập trung mọi nguồn lực để đối phó. Cứ như vậy, họ cho rằng có thể không cần đánh mà vẫn làm Iran suy kiệt.
Từ trong sâu xa
Iran có vị trí quan trọng ở khu vực Tây Á, Trung Đông, cùng với Saudi Arabia và Thổ Nhĩ Kỳ - những nước này đều có cách thức khác nhau nhằm kiềm chế tính “nước lớn” của Iran. Được ưu đãi về tài nguyên thiên nhiên, Iran có trữ lượng lớn về dầu lửa và khí đốt (thứ ba về dầu mỏ, sau Saudi Arabia và Canada; thứ hai về khí đốt, sau Nga). Vị trí địa lý của Iran cũng đóng vai trò quan trọng: eo biển Hormuz trên vịnh Persia chỉ rộng khoảng 34 dặm, tương đương 55km, nhưng lưu thông đến 35% lượng dầu thế giới vận chuyển bằng đường biển, đạt khoảng 17 triệu thùng/ngày. Biển Caspian ở phía bắc Iran cũng có một trữ lượng dầu mỏ đáng kể, đồng thời cung cấp 95% lượng trứng cá trên toàn thế giới. Caspian còn là điểm giáp giới của Iran với Nga và một số nước Trung Á thuộc Liên Xô cũ.
![]() Nguồn: Gulf News |
Vì những điều này, Mỹ và phương Tây quyết tâm thay đổi chế độ chính trị ở Iran, tiến tới đảm bảo quyền lợi của họ trong khu vực.
Thời kỳ 2011 - 2012, quan hệ giữa Iran với Mỹ và phương Tây đặc biệt căng thẳng. Lý do về phía Iran là trước cuộc bầu cử quốc hội 2.3.2012 và 4.5.2012, phái giáo sĩ đang chiếm ưu thế, càng muốn chứng tỏ sự kiên quyết chống đế quốc, không đàm phán và nhân nhượng với đế quốc. Thái độ và hành động này còn là để dồn phái của tổng thống vào thế yếu, bị vặt hết vây cánh, bị chê trách về chính sách đối nội yếu kém và đối ngoại nhân nhượng trước phương Tây. Phe tổng thống bị phê phán là quản lý kinh tế yếu, không kiềm chế được lạm phát, thất nghiệp tăng, xóa bỏ bao cấp khiến dân nghèo khốn cùng, lại tìm cách bí mật đàm phán với Mỹ.
Giở lại lịch sử, sự căng thẳng và thù địch giữa Mỹ và Iran có nguồn gốc từ nhiều sự kiện xa xưa. Năm 1953, Cục tình báo trung ương Mỹ CIA giúp Anh làm cuộc đảo chính lật đổ thủ tướng Iran Mohammad Mossadegh khi ông quốc hữu hóa công ty Dầu lửa Anh - Iran (Anglo - Iranian Oil Company, sau này là công ty BP, British Petroleum). Đây là cuộc đảo chính đầu tiên của CIA lật đổ một chính phủ dân chủ, tạo tiền đề cho một loạt cuộc đảo chính sau này ở Congo, Indonesia, Chile… Ngay sau khi cách mạng Hồi giáo thành công, ngày 4.11.1979 Iran bắt giữ 52 nhà ngoại giao trong sứ quán Mỹ làm con tin, đến tận ngày 21.1.1981, tổng cộng là 444 ngày, khoảng 14 tháng. Tổng thống Carter đã tìm cách lấy lại thể diện, nhưng ngày 24.4.1980, chiến dịch giải cứu con tin Mỹ bị thất bại trong sa mạc Yazd ở miền trung Iran. Ăn miếng trả miếng, Mỹ đã nhiều lần có những hành động gián tiếp và trực tiếp gây hấn với Iran. Tháng 1.2007 lính Mỹ tại Iraq đột kích lãnh sự quán Iran tại Erbil, bắt giữ năm nhân viên lãnh sự quán. Mỹ nhiều lần sử dụng máy bay do thám không người lái để chụp ảnh điều tra các cơ sở hạt nhân của Iran. Cuối năm 2011, Iran dùng công nghệ thông tin bắt giữ một máy bay không người lái của Mỹ. Hai bên cũng ráo riết tăng cường hoạt động tình báo. Cuối năm 2011, Iran bắt giữ 12 gián điệp CIA, cùng lúc đồng minh Libăng của Iran cũng bắt được một ổ gián điệp Mỹ.
Đối lại, Mỹ thường xuyên sử dụng các đồng minh trong khu vực tạo thành một vòng vây xung quanh Iran.
Tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc, trước việc Iran nghiên cứu và phát triển hạt nhân, Hội đồng Bảo an từng thông qua bốn nghị quyết liên quan đến Iran, các nghị quyết 1737 (năm 2006), 1747 (2007), 1803 (2008) và 1929 (2010), ấn định một số biện pháp cấm vận, bởi vì Mỹ và phương Tây cho là có dấu hiệu Iran phát triển chương trình hạt nhân vào mục đích quân sự.
Đồng minh sát cánh
Trong quan hệ Iran - Anh, từ cuối thế kỷ XVIII, Anh và Nga đã để mắt đến Iran. Nga muốn lấy đây làm cửa ngõ để vào vùng Vịnh và Ấn Độ, trong khi Anh tìm cách phá tham vọng đó của Nga. Sang thế kỷ XIX, Nga kiểm soát miền bắc Iran (cho đến 1946) trong khi Anh kiểm soát miền nam. Đầu thế kỷ XX, Anh định lợi dụng vương triều Qajar để mua độc quyền thuốc lá ở Iran, nhưng âm mưu bị lộ, làm cho dân chúng phẫn nộ, dẫn đến cuộc nổi dậy năm 1905. Trong chiến tranh Thế giới I, Nga và Anh đều chiếm phần ở Iran, còn Thổ Nhĩ Kỳ cướp phá một phần vùng tây bắc Iran theo đạo Thiên chúa.
Năm 1920, Gilan, vùng phía tây biển Caspian, thành lập nhà nước Xô Viết. Anh lập tức ủng hộ viên sĩ quan quân đội Reza Khan chiếm lại Gilan và phế truất hoàng đế Shah Ahamad. Năm 1941 vua Reza Khan của triều Pahlavi bị đày sang Nam Phi (vì thân Phát xít), người Anh dựng con trai ông là Mohammad Reza lên ngôi. Tại Hội nghị Tehran năm 1943, Anh, Nga, Mỹ công nhận Iran độc lập trong Tuyên bố Tehran. Từ đó Iran chịu ảnh hưởng mạnh của Anh. Sau khi thủ tướng Ali Razmara bị ám sát năm 1951, thủ tướng Mohammad Mossadegh quốc hữu hóa Công ty Dầu lửa Anh – Iran (British Petroleum) thành Công ty Dầu lửa quốc gia Iran (lợi nhuận phân chia: 85% cho Anh, 15% cho Iran). Năm 1953, sau khi thủ tướng Mossadegh bị Mỹ làm đảo chính lật đổ, Iran chịu ảnh hưởng mạnh của Mỹ.
Từ giữa thế kỷ XX, nhiều biến động ồn ào ở Iran có liên quan đến nước Anh. Tháng 2.1989: giáo chủ Khomeini tuyên án tử hình nhà văn Anh gốc Ấn Salman Rushdie, lấy lý do cuốn tiểu thuyết Những vần thơ quỷ (Satanic Verses) “báng bổ đạo Hồi” – sự việc này gây ra đổ vỡ quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Ngày 28.11.2011, Iran trục xuất đại sứ Anh và hạ cấp quan hệ ngoại giao. Chỉ một ngày sau, 29.11 người Iran tấn công vào đại sứ quán và nhà riêng của các nhà ngoại giao Anh, phản đối Anh tuyên bố cấm vận Iran một tuần trước đó. Sau vài ngày, đến 1.12.2011, Liên minh châu Âu phát lệnh trừng phạt 180 cá nhân và công ty Iran.
Mối quan hệ căng thẳng giữa Mỹ và phương Tây với Iran lại được trợ giúp của Israel, một đồng minh của Mỹ. Cùng lúc cũng dấy lên một cuộc “chiến tranh lạnh” hoặc “chiến tranh ngầm”, “chiến tranh mềm” của Mỹ và Israel chống Iran. Một số hoạt động phá hoại hoặc ám sát nhằm vào các cơ sở hạt nhân và các nhà bác học hạt nhân của Iran, chẳng hạn vụ nổ ngày 12.11.2011 tại căn cứ tên lửa đạn đạo gần Tehran làm 17 người chết, trong đó có vị tướng chỉ huy; vụ nổ ngày 28.11.2011 ở Isfahan, thành phố có nhiều cơ sở quân sự liên quan đến chương trình hạt nhân. Mỹ và Israel còn lôi kéo một số quan chức hạt nhân Iran chạy sang phương Tây, như vụ xảy ra năm 2007. Đến năm 2011, họ dùng virus máy tính Stuxnet để phá hoại chương trình hạt nhân Iran (làm hỏng 30.000 máy tính Iran), sau đó là virus Star, bắt chước những văn bản máy tính của chính phủ Iran để xâm nhập và phá hoại. Chiến tranh mềm còn thể hiện ở việc kích động thanh niên sinh viên Iran, hứa hẹn học bổng ở Mỹ, mua chuộc và lôi kéo các nhà khoa học, khích lệ các thế lực phản kháng trong xã hội Iran nổi dậy. Trong bài diễn văn chúc Tết Nowruz 2011 của Tổng thống Obama, hoặc trong việc Mỹ lập website Đại sứ trên mạng, đều có mục đích thay đổi chế độ chính trị ở Iran.
Càng căng trong giai đoạn 2011 - 2012
Giai đoạn này, Mỹ chuẩn bị cho cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11.2012. Phái phản chiến cho rằng nếu Mỹ dùng biện pháp quân sự sẽ đẩy Trung Đông vào tình hình nguy hiểm (năm 2003 Mỹ từng kết tội sai Iraq sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt và đưa quân vào, để rồi không tìm thấy gì). Phái chủ chiến gồm những nghị sĩ đảng Cộng hòa, những phần tử bảo thủ mới, và tổ chức vận động hành lang Israel ở Mỹ AIPAC thì phê phán Obama tỏ ra nhu nhược trước Iran. Do đó Tổng thống Obama phải chứng tỏ mình cứng rắn trong xử lý vấn đề. Ứng cử viên đảng Cộng hòa Mitt Romney nắm bắt thời cơ để hứa hẹn nếu ông ta chiến thắng thì “Iran sẽ không thể có vũ khí hạt nhân”.
Israel có thể tận dụng thời gian này để đơn phương tấn công Iran. Theo tính toán của Israel, việc tấn công này sẽ buộc Mỹ phải vào cuộc, hoặc nếu Mỹ đứng ngoài thì Obama sẽ thua cử, vì mang tiếng là yếu ớt trước Iran, đồng thời để xảy ra một cuộc chiến tranh mà Mỹ thụ động bị Israel lôi kéo vào.
Giữa Mỹ và Iran luôn thường trực một mối thù lâu đời như đã trình bày ở trên. Mỹ đã ủng hộ Iraq trong cuộc chiến tranh với Iran 1980 - 1988. Trong khu vực, từ lâu Mỹ kình địch với Syria, Hezbollah ở Libăng và Hamas ở Palestine là những đồng minh của Iran. Mỹ cũng dùng các đồng minh trong khu vực tạo thành một vòng vây xung quanh Iran. Bahrain là nơi Mỹ đặt tổng hành dinh của hạm đội 5 và đầu năm 2012 Mỹ đàm phán để bán vũ khí cho Bahrain, trị giá 53 tỷ USD. Yemen là tiền đồn để Mỹ chống khủng bố. Tháng 10.2010, Mỹ đàm phán bán cho Saudi Arabia một gói vũ khí lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ, trị giá 67 tỷ USD, để đối phó với Iran. Hợp đồng này cung cấp bom siêu trọng, 84 máy bay chiến đấu F-15 (đã giao vào năm 2011), trực thăng Black Hawk và Apache, tên lửa Patriot-2 và tàu chiến. Bên cạnh đó, Mỹ dự định cung cấp tên lửa Stinger và nhiều loại tên lửa khác cho Oman. Không chỉ vũ khí, Mỹ còn bố trí căn cứ quân sự tại Israel, Kuwait, Bahrain, Oman và trong tháng 2.2012 điều động thêm 15.000 quân tới Kuwait. Thêm quân Mỹ vẫn còn ở Iraq và Afghanistan siết chặt Iran từ hai phía đông – tây. Tổng quân số Mỹ ở vùng Vịnh tính đến đầu năm 2012 vào khoảng 40.000 quân.
Các đồng minh của Mỹ như Pháp thì muốn lấy lại ảnh hưởng cũ ở Libăng, nơi có lực lượng Hezbollah là đồng minh của Iran. Liên minh châu Âu EU muốn quản lý được nguồn dầu lửa trong khu vực Trung Đông. Các công ty dầu lửa phương Tây sẽ được lợi nếu sản xuất dầu giảm và giá dầu tăng – mà nếu gây chiến tranh sẽ làm được cả hai việc này.
Tuy vậy, cùng lúc gây căng thẳng với Iran, Mỹ cũng phải dàn xếp để chiến dịch cấm vận không gây thiệt hại cho đồng minh như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc…