Xuất khẩu gạo: Cần tỉnh táo “bắt mạch” thị trường
Sau mức đỉnh 7,1 triệu tấn được xác lập năm 2011, xuất khẩu gạo của Việt Nam được dự báo là sẽ gặp nhiều khó khăn trong năm 2012. Chỉ riêng 2 tháng đầu năm nay, lượng gạo xuất khẩu ước đạt 756 nghìn tấn giảm 26,6%, kim ngạch đạt 437 triệu USD giảm 16,1% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh sức mua thị trường giảm, nguồn cung của thế giới lớn thì sự cạnh tranh của các thị trường xuất khẩu khác sẽ là bài toán khó đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Khi cung đang vượt cầu
![]() Chuyên gia Nguyễn Đình Bích: Cần đổi mới chuỗi giá trị sản xuất và thương mại lúa gạo của chúng ta để người nông dân được hưởng lợi nhiều hơn. |
Năm 2011, nông sản thế giới được mùa. Theo Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO), do thời tiết thuận lợi nên nhiều quốc gia tại châu Âu, châu Á và Nam Mỹ lại được mùa. Sản xuất nông nghiệp ở các nước Châu Âu đã phục hồi sau đợt hạn hán năm 2010. Sản lượng ngũ cốc trong năm nay đã đạt đến 2,2 tỷ tấn, mức kỷ lục cao nhất từ trước tới nay. Chỉ riêng lượng lương thực tồn trữ đã lên tới 1.147 triệu tấn. Con số này cũng cho thấy, sau một số năm cung chưa đủ cầu, từ giữa năm 2011 đến nay, sản lượng ngũ cốc của thế giới đang vượt nhu cầu tiêu dùng.
Xu thế này, cùng với việc các nước đã chủ động nhập lượng lớn lương thực năm 2011 do lo ngại biến động giá, dẫn tới việc giá ngũ cốc đã giảm nhiều. Cũng theo FAO thống kê, từ tháng 9/2011 đến tháng 1/2012, chỉ số giá của các mặt hàng ngũ cốc đã giảm 10%.
Mặt khác, thị trường xuất khẩu gạo từ giữa năm 2011 đánh dấu sự trở lại sau thời gian gián đoạn của Ấn Độ, cùng với đó là sự nổi lên của các thị trường xuất khẩu khác như Pakistan hay Myanmar… Hiện, Việt Nam đã bị đẩy xuống vị trí thứ 4 trong các nước xuất khẩu gạo lớn nhất của thế giới, sau Ấn Độ, Thái Lan và Pakistan. Nhiều doanh nghiệp Việt không ký được hợp đồng bởi giá gạo phẩm cấp thấp (25% tấm) của Việt Nam hiện cao hơn khoảng từ 80- 100 USD/tấn so với các nước xuất khẩu khác như Ấn Độ, Pakistan, Myanmar.
Mấy năm gần đây, việc giá lương thực biến động liên tục, cùng với sự bất ổn của nền kinh tế, kéo theo sự thay đổi chính sách an ninh lương thực của Chính phủ các nước theo hướng bảo đảm an ninh lương thực bằng “tự cấp tự túc lương thực”. Cụ thể, các nước này mở rộng sản xuất trong nước, tập trung vào các biện pháp tăng hỗ trợ giá, trợ giá nguyên liệu đầu vào, hạn chế thương mại. Bên cạnh đó, xuất khẩu gạo của Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu là gạo phẩm cấp thấp, tập trung vào các thị trường dễ tính. Điều này dẫn tới thị trường tiêu thụ của Việt Nam chưa thật sự đa dạng, đặc biệt là việc chen chân vào các thị trường khó tính nhưng lại nhiều tiềm năng và ổn định như Nhật Bản, EU.
![]() |
Chủ động “bắt mạch” thị trường, điều chỉnh theo nhu cầu
Chuyên gia thị trường của Viện Chiến lược chính sách nông nghiệp nông thôn (IPSARD) Nguyễn Đình Bích nhận định, việc chưa nắm được đầy đủ thông tin, cũng khả năng dự báo cung-cầu thị trường chưa thật tốt dẫn tới việc các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam bị cuốn theo các quyết định tăng, giảm giá vội vàng. Nửa cuối năm 2011, khi chúng ta đang mải chạy đua tăng giá với người Thái thì việc lúa gạo cùng chất lượng của Ấn Độ, Pakistan lại chạm đáy, rẻ hơn chúng ta có lúc trên 100USD/tấn khiến nhiều bạn hàng của chúng ta quay lưng.
Sau đó, khi chúng ta buộc phải hạ giá, tốc độ hạ giá của các nhà xuất khẩu gạo Việt Nam cũng chóng mặt, có lúc giảm đến 120USD/tấn. Rất có thể, các doanh nghiệp Việt sẽ “xót ruột” bởi những hợp đồng “rẻ chạm đáy” bởi Philippines, bạn hàng nhập khẩu gạo lớn của Việt Nam, có khả năng cần nhập khẩu lượng gạo lớn trước thời điểm mùa mưa bão sắp đến, và thái độ làm giá của các nhà nhập khẩu nước này trước đó có vẻ đã thắng. Bên cạnh đó, Indonexia có thể tăng nhu cầu nhập khẩu gạo lên 2 triệu tấn trong năm nay, thay vì 1 triệu tấn như thông báo trước đó.
Điều này cho thấy, việc nắm bắt thông tin bạn hàng, đối thủ trong hoạt động xuất khẩu là vô cùng quan trọng. Cùng với đó là khả năng dự báo thị trường, để có những điều chỉnh hợp lý cả về giá cả, số lượng và chất lượng gạo, đáp ứng nhu cầu thị trường. Về hướng nâng cao tỷ trọng gạo phẩm cấp cao, gạo thơm trong xuất khẩu gạo của Việt Nam, ông Nguyễn Đình Bích cho rằng, dù gạo phẩm cấp cao của Việt Nam chưa thể cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của Thái Lan, thì vẫn có cửa cho sản phẩm của chúng ta nếu làm tốt mặt thương hiệu và giá cạnh tranh; tín hiệu từ việc tăng đáng kể lượng gạo thơm xuất khẩu của chúng ta hiện nay cho phép kỳ vọng vào điều đó.
Hiện tại, cả diện tích và năng suất lúa gạo của Việt Nam đã đạt đến ngưỡng, cho nên để có thể duy trì thành tích xuất khẩu, cũng như gia tăng giá trị lúa gạo xuất khẩu, thì việc đầu tư nâng cao chất lượng gạo, đặc biệt là gạo phẩm cấp cao là một hướng đi duy nhất, tất yếu. Trước đây, chúng ta đã từng xuất khẩu một lượng gạo nhất định vào thị trường Nhật Bản, EU. Tuy nhiên việc các thị trường khó tính áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật ngặt nghèo để kiểm tra chất lượng sản phẩm đã khiến gạo của chúng ta hiện nay vắng bóng tại các thị trường này.
Để có thể đa dạng hóa thị trường, thâm nhập vào các thị trường khó tính, chúng ta cần đổi mới quy trình sản xuất lúa gạo một cách khoa học, hợp lý. Vừa có thể kiểm soát tốt chất lượng gạo, vừa có thể bảo đảm các tiêu chuẩn an toàn về dư lượng chất bảo vệ thực vật, tăng năng suất. Đồng thời, đó là việc xây dựng và bảo đảm uy tín của các thương hiệu gạo, các chỉ dẫn địa lý các loại gạo đặc trưng, chất lượng. Chỉ khi có chất lượng, bảo đảm an toàn về dư lượng chất bảo vệ thực vật, có thương hiệu và nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, thì gạo Việt Nam mới có thể tự tin thâm nhập vào các thị trường khó tính trên thế giới, đang ngày càng trở thành xu thế phổ biến hiện nay.
Về lâu dài, theo chuyên gia Nguyễn Đình Bích, cần đổi mới ngành sản xuất nông nghiệp cùng với quá trình cơ cấu nền kinh tế. Trong đó, tập trung phát triển nhanh, mạnh ngành công nghiệp chế biến nông sản, trong đó có chế biến, xay sát lúa gạo, nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản, qua đó gia tăng giá trị. Cùng với đó, đẩy mạnh thực hiện gieo trồng lúa theo mô hình “cánh đồng mẫu lớn”. Nó sẽ là lời giải cho bài toán về chuỗi giá trị sản xuất lúa gạo của chúng ta đang lòng vòng qua quá nhiều khâu trung gian, dẫn tới người nông dân sản xuất trực tiếp thì được hưởng lợi rất ít. Đồng thời, tạo thuận lợi cho việc cơ giới hóa, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, bảo đảm chất lượng và sự thuần nhất của sản phẩm, giảm tiêu hao vật tư, giảm giá thành sản xuất, tăng năng suất lúa, mang lại lợi nhuận xứng đáng cho người nông dân trên cánh đồng của họ.
Tóm lại, để xuất khẩu gạo của chúng ta năm 2012 và các năm tiếp theo tiếp tục mang lại nguồn thu lớn cho người dân và Nhà nước, việc cần làm là nắm bắt đầy đủ thông tin cung-cầu của thị trường thế giới, làm tốt công tác dự báo; đẩy mạnh đổi mới hoạt động sản xuất lúa theo chuỗi sản xuất lúa sạch, khoa học, triển khai rộng rãi mô hình “cánh đồng mẫu lớn”, nâng cao hoạt động của ngành nông nghiệp chế biến nông sản; áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và quản lý sản xuất, chế biến và xuất khẩu.