Điệp huyết sa trường (Phần cuối)
Truyện ngắn của Lê Vũ Trường Giang
>> Điệp huyết sa trường (Phần 1)
*
Sáng ra bầu trời quang đãng, khí trời mát dịu, La Ngai cảm thấy sảng khoái vô cùng. Chàng ngồi nghe chim hót hiếm hoi bên hàng cau cạnh trấn lũy, bên kia cờ xí quân Đại Việt bay rợp trời. Còn nhớ mấy ngày trước chàng ngồi trước hiên để vợ chải tóc, cũng bên một hàng cau ngập tiếng chim ca. Matena, vợ chàng, người vũ nữ apsara đẹp nhất vương quốc đã say chàng, một dũng tướng dày dạn chiến chinh. Nàng là bông hoa tỏa hương, xua đi nỗi mệt nhọc trên lưng ngựa mà mỗi chiến binh Champa thường phải đối mặt.
Đó là một đêm trăng sáng, một buổi tế lễ diễn ra dưới ngọn đồi linh thiêng với nhiều cổ tháp, nơi mà thần dân trong vương quốc theo đức vua đến lễ bái hàng năm. Điệu múa cúng dường thần linh uyển chuyển, thanh thoát của các vũ nữ, những thân hình căng mượt, cháy bỏng vờn vũ bên ánh lửa thiêng.
Bắt gặp một ánh mắt trăng rằm, trong thoáng chốc đã soi rọi vào tim La Ngai một niềm si mê cuồng dại. Không chần chừ, La Ngai thúc ngựa tiến lên đồi và quỳ xuống bên cạnh nàng.
Chế Bồng Nga quan sát hành động của La Ngai và ngài gật đầu đồng ý. Ông ta là một vị quốc vương thích chối bỏ những giá trị cũ, dễ dàng chấp nhận điều mới lạ. Một senapati và một apsara có thể là sự kết hợp vi diệu tạo nên một dân tộc vững mạnh. Chế Bồng Nga là một Maharaja thích chiến tranh hơn là hòa bình, thích cưỡng đoạt hơn là tự làm ra và dĩ nhiên tinh hoa cái đẹp cần dâng hiến hẳn là sự thừa nhận khôn ngoan nhằm tranh thủ sự tận tụy của một vị tướng.
|
Các vị Rsy ở Kalan có vẻ không đồng tình.
La Ngai nắm lấy tay nàng như cầm một bông hoa. Nàng đặt tay La Ngai vào mulkhalinga trong Kalan, đó là dung diện thần Siva. La Ngai đứng sững lại, mắt nhắm nghiền nhìn về một ngọn núi được các đại dương bao bọc. Chàng thấy một linh hồn xổng ra, lơ lửng trong không trung, nói thầm với La Ngai: “Ngươi là chiến binh hoàn hảo. Hủy diệt là nhiệm vụ của một chiến binh hoàn hảo. Hãy sống trên lưng ngựa bằng một lưỡi gươm hoàn hảo”.
Phía sáng của bóng tối xuất hiện một nữ thần: “Ta là Poh Nagar. Hãy lắng nghe những gì ta nói”. La Ngai gật đầu, im lặng. “Vương quốc của con đang tự hủy hoại chính mình bằng những lưỡi gươm hoàn hảo. Thay đổi định mệnh? Điều đó chắc chắn phải là việc làm của một vị thánh. Các thánh có năng lực cải đổi số mệnh. Con cũng có thể là một vị thánh”.
La Ngai đứng thẳng dậy, mặt trời đã lên từ phía Đông, chiếu những tia nắng sáng nhảy nhót trên mái tóc đen huyền của Matena, người vũ nữ đền thờ được tạo hóa ban cho vẻ đẹp hoàn hảo như vầng mặt trời rạng tỏa trên ngọn Meru. Bế nàng lên ngựa chàng phi thẳng xuống đồi trong tiếng reo hò của dân chúng và những chiến binh tận tụy với vương quốc mình.
*
Tướng Trần Khát Chân đến Hoàng Giang xem xét địa thế, thấy không có chỗ nào đóng quân thuận lợi, bèn rút về đóng ở Hải Triều, tức khu vực sông Luộc xây dựng thế trận kháng địch. Trời càng ngày càng lạnh, tướng sĩ chịu đựng gian khó ngày đêm canh giữ trấn đồn. Hải Tây đô thống chế Lê Quý Ly cho người mang thư tới tỏ ý khen ngợi vị tướng trẻ tài cao, hẹn rằng nếu thắng trận sẽ ban thưởng hậu. Trần Khát Chân viết thư trả lời: “Giang sơn này là của nhà Trần!” Quý Ly tỏ vẻ không hài lòng, liền cài mấy tướng tùy tùng trong đạo quân của Trần Khát Chân. Vị tướng trẻ lòng như lửa đốt vì giặc lại còn phải đối mặt với những trò tởm lậu của đám ngoại thích nhát chết. Trần Khát Chân cho người gửi về Lê đô thống một chiếc gươm nhỏ lấy được của người Chiêm. Từ đó, ngày đêm tăng cường phòng thủ, vỗ về binh sĩ đợi giặc đến sẽ phá tan chúng.
*
Đạo binh Champa sau khi cướp bóc suốt một khu vực rộng lớn ở đồng bằng Thanh –Nghệ liền thúc quân tràn vào sông Luộc định bụng tiêu diệt hết quân Trần rồi san bằng Thăng Long, bắt sống vua tôi nhà Trần, kết thúc chiến tranh. Đầu năm Canh Ngọ (1390), Chế Bồng Nga mang hơn trăm chiến thuyền đến Hải Triều đối đầu với quân Trần Khát Chân. Trước khi xuất quân, La Ngai khuyên quốc vương của mình: “Thưa Mahajara vĩ đại, người nên thận trọng khi vào khu vực đóng quân của Đại Việt. Đêm qua thần mơ thấy Mẹ Poh Nagar báo mộng lần này ta sẽ gặp điều chẳng lành. Xin Mahajara xem lại cách hành quân và nghinh chiến”.
Chế Bồng Nga vuốt râu hùm, cười khanh khách: “Ta đi vào đất Đại Việt khác nào vào rừng săn thú. Ta săn chúng chứ chúng đâu dám săn ta. Nếu ngươi sợ thì hãy là một senapati đi phía sau ta đi”. Nói rồi cho quan bưng cơi trầu vào mời chư tướng. La Ngai từ chối ăn trầu, xin phép lui ra thu xếp việc quân. Mặt chàng đăm chiêu cố giấu đi mối lo đang dâng lên trong lòng. Hậu quân của La Ngai đóng vai trò tiếp ứng cách khu vực tiến quân của Chế Bồng Nga gần chục dặm. La Ngai đứng trên tháp tàu, mắt không ngừng quan sát việc bày trận của quân Champa.
*
Trận Hải Triều
Hôm ấy, trời tháng giêng nhưng âm u, mưa lay bay tẩm ướt những cánh đồng. Chế Bồng Nga cho thuyền chiến tấn công vào Hải Triều. Trần Khát Chân chỉ huy quân chống cự. Thủy quân Champa thiện chiến, đánh chìm nhiều chiếc thuyền lớn của quân Trần. Chiến lũy quân Trần dày đặc, bố trí chặt chẽ nên quân Champa khó có thể công phá trong nay mai.
Chế Bồng Nga ngồi ở thuyền chỉ huy ung dung uống rượu, ra lệnh cho thủy quân không ngừng tấn công quyết liệt vào quân Trần. Hải Triều dậy sóng, gươm đao sáng lòa, chiến trường nóng bỏng át đi cái khí lạnh đầu năm. Chế Bồng Nga vẫn điềm nhiên nhắm chút rượu, vừa chỉ huy các thuyền thọc sâu vào trận địa quân Trần.
Đạo quân của Khát Chân sẵn sàng chiến đấu, hàng ngũ chỉnh tề, giáo gươm sáng chói. Vị chủ tướng động viên sĩ khí: “Ba quân tướng sĩ, hãy sát lại bên nhau chiến đấu vì sự tồn tại của Đại Việt!” Nói rồi đích thân giục trống quân tiến lên.
Hai bên lao vào áp chiến, thuyền giáp lá cà. Quân lực mỗi bên ngang nhau, vung những đòn chí mạng hòng nhấn chìm đối phương. Quân hai bên huyết chiến, lớp này xông lên, ngã, lớp khác lại lao tới. Gươm đao, giáo mác bạt hạ sinh linh. Tiếng hò reo quyết tử, tiếng rên la của cái chết trộn vào nhau thành một sự giao hưởng của đoản khúc chiến tranh bi tráng.
Đánh từ sáng đến trưa, thây người ngã xuống đầy sông, lổn nhổn cả những vũng bùn trống. Quân Đại Việt bị đánh dạt sang bờ bắc có nguy cơ đại bại. Khát Chân tả xung hữu đột, một mình chém hạ hàng chục lính Chiêm Thành, hô hào sĩ khí quyết không chịu bại. Vừa lúc ấy, có viên tướng là Ba-Lậu-Kê đang chỉ huy thuyền tiên phong đột kích vào thủy quân Trần bỗng nhiên rút lui dù không có lệnh của Maharaja nên đã làm chết hàng trăm quân lính. Chế Bồng Nga tức giận cho người tới lấy đầu Ba-Lậu-Kê. Viên tướng này hốt hoảng bỏ chạy sang hàng ngũ quân Trần.
Ba-Lậu-Kê quỳ trước mặt Khát Chân và chỉ cho quân Trần biết đâu là thuyền của đại vương hắn. “Chiếc chiến thuyền sơn màu xanh là thuyền của Chế Bồng Nga. Tướng Quân hãy nhắm vào đó mà bắn”. Trần Khát Chân hạ lệnh cho quân sĩ, nhất tề nhả đạn đá, bắn tên vào chiếc thuyền ấy. Bồng Nga đang uống rượu bỗng dưng bị mưa tên và đá lao vào thuyền. Vị Maharaja nhảy vào trong khoang gỗ, cờ lệnh vẫn phất ra ngoài kêu tiếp ứng. Đá bay vào tận khoang thuyền, làm vỡ các tấm gỗ lớn. Chế Bồng Nga khấn niệm: “Siva, xin Người hãy bảo vệ con!” Các thuyền cận vệ nhanh chóng chèo tới để bảo vệ đại vương thành một lớp dàn ngang chếch chéo mặt sông. Khát Chân truyền lệnh các cỗ máy bắn đá, tên tấn công dồn dập vào thuyền sơn xanh. Thủy quân Trần cùng lúc ấy cũng ào cả ra, xáp vào thuyền đám lâu la. Đạn bay vèo vèo, tên cắm chi chít lên thuyền Chế Bồng Nga. Đám tùy tướng và cận vệ trên thuyền mình găm đầy tên. Một senapati trú cùng khoang với Chế Bồng Nga bị tên bắn xuyên tim. Họ Chế lại cầu khấn, định phá khoang nhảy xuống nước thoát thân. Đám cận vệ đứng đông quá, hốt hoảng quên cả nhường lối cho Maharaja của chúng. Bỗng một quả đạn đá to nặng khoảng một bình(10) tông phá khoang thuyền, đè giập gáy tay chiến binh sừng sỏ trong lúc y cố chui ra ngoài. Người trong thuyền quân Chiêm kêu khóc ầm ĩ cả lên. Khát Chân cười lớn, thúc quân đánh tràn sang các thuyền địch. Có bề tôi chặt đầu của Chế Bồng Nga đem dâng cho quân Trần. Khát Chân tức tốc sai lính đem đầu vua Chiêm về báo tin thắng trận cho Thái thượng hoàng.
Chế Bồng Nga chết, quân Champa không ai chỉ huy, chiến đấu rời rạc. Tin quốc vương đã chết truyền khắp mặt sông, quân lính nghe thế hốt hoảng tháo chạy. La Ngai từ xa thấy khói lửa mịt mùng, thám báo cho hay đại vương đã tử trận. La Ngai tức tốc kéo quân vào ứng chiến, quyết lấy cho được xác vua về.
Tài xoay chuyển trời đất
nhớ vua Trùng Hưng xưa
mặt bể nghìn chiến hạm
cửa non vạn bóng cờ
trở tay non sông lặng
sông Ngân rửa tanh nhơ(11)
*
Trần Khát Chân thấy quân địch lại kéo đến liền ra lệnh bày thuyền ứng chiến.
La Ngai kéo quân đến, đánh bạt những chiếc thuyền đang cố truy kích quân Chiêm.
Trần Khát Chân ra lệnh ngừng chiến, bước lên mui thuyền định trò chuyện với viên tướng giặc. Hai đôi mắt đang thắp những ánh lửa khác màu nhìn nhau không nói.
Quân hai bên thôi reo hò ầm ĩ. Gió ngừng thổi, sông ngừng trôi, chỉ có tiếng thở nhọc nhằn từ hai cơ thể chủ tướng sặc mùi sát khí. La Ngai nhìn chiếc tàu của Mahajara tan tành, ghim đầy cung tên. Cái xác không đầu của đại vương chàng nằm vất vưởng trên một tấm ván thuyền trôi nổi. La Ngai chưa bao giờ rơi vào một cảnh ngộ như thế này. Chàng chưa bao giờ thích máu. Ngay lúc này đây, chính nó làm chàng buồn nôn. Khát Chân cảm thấy nhói đau ở ngực khi chứng kiến đại vương Chiêm và bao quân sĩ lập lờ trên mặt nước, máu nhuộm đỏ sông. Màu máu làm chàng lóa mắt. Chàng bất lực với chính mình, bất lực với những phán xét nghiệt ngã của số phận.
Khát Chân thấy người thấm mệt, cô đào Long thành hiện lên chập chờn trong đầu, nàng ôm vòng tay trắng muốt qua cổ vị chinh tướng, thủ thỉ những lời. Cánh đồng quê lộng gió, những con phố cổ mái ngói rêu phong; những ấm trà, chén rượu trong đêm trăng rằm, nghêu ngao du ca đời tráng sĩ. Cơ nghiệp họ Trần cũng đang chờ chàng chấn hưng. Khát Chân lại thấy Lê Quý Ly nhảy xổ vào đầu mình, vung kiếm chỉ vào ngai vàng của Thượng Hoàng. Khát Chân lắc đầu cho trôi những hình ảnh ma mị.
La Ngai chống gươm, Khát Chân cũng dựng kiếm xuống mui thuyền. Một sự đình chiến tạm thời. Hai vị tướng của hai nước nhìn nhau. Có lẽ họ cần một cuộc đối thoại trước khi một trong hai chắc chắn bị viên sử quan của triều đình đánh dấu chấm sau trận chiến hôm nay. La Ngai đứng lặng một hồi. Gió sông thổi lên mát rượi. Cánh tay chàng đang mỏi mệt và tâm hồn chàng đang run rẩy sau những nhát gươm cuồng nộ.
Đối diện La Ngai, vị tướng trẻ Đại Việt lặng nhìn chiến trường đầy xác chết, lòng quặn đau bởi vô vàn vết cứa rớm ra từ tâm hồn. Đôi mắt ấy đỏ au, tiết ra những giọt nóng hổi, cô đặc, nhỏ như đầu tăm. Tượng Phật trong ngực họ Lý chợt rung rung, hơi ấm từ đâu tỏa ra ôm lấy con tim, ôm lấy tấm thân khô cứng vì máu.
Khát Chân gật đầu chỉ vào cái xác của Chế Bồng Nga. La Ngai cúi gập người, nước mắt giọt xuống mặt sông tanh máu.
*
Thủ cấp Chế Bồng Nga được viên giám quân của Khát Chân đem về triều. Đến canh ba thì tới hành tại của Thượng hoàng ở bến Bình Than. Quân lính khắp nơi vui mừng nhảy múa, Thượng hoàng kinh động thức giấc tưởng quân giặc đến nơi. Khi biết được tin quân ta đại thắng thì phấn khởi vô cùng, liền cho mời bá quan văn võ sáng hôm sau đến thiết triều. Khi mở chiếc hòm đựng thủ cấp, Thượng hoàng nói:
“Ta với Chế Bồng Nga cầm cự nhau đã lâu nhưng mà nay mới thấy mặt nhau. Việc này nào có khác gì chuyện Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Võ. Thiên hạ vậy là đã yên rồi”.
Lê Quý Ly ở dưới nhếch mép cười, rồi xin lãnh binh vào tận nước Chiêm để phá giặc, diệt tận sào huyệt. Thượng hoàng chuẩn tấu, tiện thể mang sắc phong tướng cho Trần Khát Chân là Long Tiệp Phụng Thần Nội Vệ Thượng Tướng Quân, tước Vũ Tiết Quan Nội Hầu. Các tướng họ Trần trong lòng bất bình mà không dám nói ra. Lê Quý Ly giăng kỳ tướng Hải Tây đô thống chế, giục quân nhanh chóng đuổi theo địch.
*
Ta lấy cây cung mà chiến binh đã chết còn nắm
để được lấy sức mạnh và vinh dự của người.
người nằm đó, ta đứng đây, cùng là dòng giống anh dũng,
ôi đất, đất mở lòng ra, đừng đè nặng lên người chiến binh
nên giúp đỡ người, cho người ấy dễ dàng nằm vào lòng,
bao lấy người như một tấm khăn liệm,
như một người mẹ lấy chiếc áo quấn lấy đứa con vậy.(12)
Binh lính Champa đưa thi hài của Chế Bồng Nga lên thuyền, ra một đoạn sông vắng, cảnh sắc tươi đẹp thì dừng lại. La Ngai truyền lệnh toàn quân cạo trọc đầu theo truyền thống rồi quỳ trước Mahajara. Đến chập tối, bỏ xác lên một bè củi rồi hỏa thiêu trên sông. Tiếng khóc vang trời, tiễn đưa một chiến binh vĩ đại đi vào xứ sở của Siva hiển minh. Tất cả nguyện cầu cho mối lương duyên Moksha.(13)
La Ngai ngậm ngùi thu quân về nước.
Chợt phía sau có ánh đuốc trập trùng, quân Đại Việt reo hò thúc dội đuổi theo. Ánh đuốc soi rọi cờ hiệu Hải Tây đô thống chế.
La Ngai bỏ thuyền lên bộ, chạy vào vùng rừng núi hoang vu. Đoàn quân lạc vào một không gian đen đặc. Một lời sấm nguyền vang lên lanh lảnh:
“Trong một đất nước không vua thì con không nghe lời cha, vợ không nghe lời chồng
Trong một đất nước không vua thì mọi người không xây dựng được lâu đài, đền miếu và vườn tược
Đất nước không vua khác nào như sông không nước, rừng không cỏ, đàn gia súc không người chăn”.(14)
La Ngai quỳ xuống đất, mắt hướng về phương Nam. Tiếng trống baranưng dập dìu. Tướng kỳ Hải Tây đô thống chế tháo hạ, quay về phương Bắc ôm mộng đế vương, kiếm chỉ ngai vàng Trần tộc.
Trăng lên, mờ tỏ những bóng người lay lắt trên những con đường muôn ngả.
_______________________________
10. Tương đương 50kg.
11. Thơ Trương Hán Siêu.
12. Một đoạn trong Rig Veda.
13. Nghĩa là đầu thai (nghĩa gốc tiếng Sanskrit: sự giải thoát cuối cùng – BT).
14. Sử thi Ramayana.