Công đoàn phải thực sự hấp dẫn người lao động và người sử dụng lao động
Thảo luận về dự án Luật Công đoàn (sửa đổi), nhiều ĐBQH cho rằng việc sửa đổi luật là cần thiết. Tuy nhiên, việc sửa đổi luật lần này phải xác định rõ chức năng đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động của công đoàn. Và hơn hết, công đoàn phải thực sự hấp dẫn người lao động và cả người sử dụng lao động.
ĐBQH Nguyễn Thị Thanh (Ninh Bình): Quy định vai trò công đoàn
Tôi nhất trí với phương án 1 của dự thảo luật về địa vị pháp lý của công đoàn, bởi lẽ chức năng đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động là chức năng vốn có, bẩm sinh của công đoàn trên cơ sở kế thừa Luật Công đoàn hiện hành và các văn bản của Đảng, nhất là Nghị quyết 20 của khóa X và luật có liên quan như Bộ luật Lao động. Cũng theo quy định của điều này, công đoàn còn chăm lo cho người lao động, tuy nhiên việc cụ thể hóa sự chăm lo trong luật chưa rõ. Tôi đồng tình với ý kiến của Ủy ban Pháp luật là cần có quy định, điều khoản cụ thể để công đoàn chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của người lao động, để công đoàn thực sự có tính hấp dẫn đối với người sử dụng lao động cũng như người lao động. Có thể cụ thể quy định vai trò công đoàn trong các phong trào thi đua, trong các hoạt động văn hóa tinh thần, khen thưởng, đề bạt, tôn vinh, như vậy công đoàn mới thực sự thể hiện được vai trò chăm lo của mình.
Đối với việc bố trí cán bộ công đoàn chuyên trách trong cơ quan, tổ chức, đơn vị doanh nghiệp ở Điều 17, việc không có cán bộ công đoàn chuyên trách ở các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp hiện nay là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho hoạt động công đoàn khó khăn và có những yếu kém. Nhiều ý kiến còn băn khoăn về vị trí, vai trò của tổ chức công đoàn, vì vậy việc bố trí cán bộ công đoàn chuyên trách được quy định trong dự thảo Luật Công đoàn lần này là điều rất quan trọng. Nếu bố trí được ở nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp thì càng tốt. Song trong điều kiện thực tế hiện nay, tôi nhất trí với dự thảo luật quy định đối với những cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp có từ 500 lao động trở lên được bố trí ít nhất một cán bộ công đoàn chuyên trách là phù hợp. Bởi vì khi chưa có quy định này, nhiều doanh nghiệp có trên 500 công nhân hoặc nhiều hơn gấp rất nhiều lần con số này nhưng vẫn chưa có cán bộ công đoàn chuyên trách. Vấn đề tài chính công đoàn thực tế rất khó thu và việc thực hiện Luật Công đoàn cũng chưa thực sự đi vào nề nếp. Do vậy nếu quy định doanh nghiệp có 300 công nhân trở lên thì sẽ có nhiều doanh nghiệp cần phải có cán bộ công đoàn chuyên trách hơn. Như vậy, việc bố trí cán bộ công đoàn với một số lượng lớn trong thời gian tới sẽ chưa thể bảo đảm tốt cho việc bố trí cán bộ công đoàn được đào tạo cơ bản và có khả năng đáp ứng ngay được yêu cầu nhiệm vụ. Mặt khác, cũng cần tính toán đến nguồn kinh phí để chi trả tiền lương cho cán bộ công đoàn chuyên trách có đảm bảo được không? Cùng với đó, cần phải cân đối ưu tiên kinh phí cho hoạt động công đoàn ở cơ sở, do vậy quy định trên 500 công nhân sẽ bố trí một cán bộ công đoàn chuyên trách là hợp lý và đề nghị Ban soạn thảo thống nhất nội dung này trong quy định của Bộ luật Lao động.
ĐBQH Chu Sơn Hà (Hà Nội): 2 yếu tố quan trọng nhất đã bị đưa ra khỏi luật...
Sau hơn 20 năm thực hiện, Luật Công đoàn năm 1990 đã có nhiều nội dung không còn phù hợp với điều kiện thực tế. Hơn nữa hệ thống pháp luật đã có nhiều văn bản điều chỉnh các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Do vậy, việc sửa đổi Luật Công đoàn năm 1990 là cần thiết và đây cũng là việc cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng. Theo đó sớm sửa đổi, bổ sung Luật Công đoàn để phù hợp, tương thích với các quy định của Hiến pháp, Bộ luật Lao động, Luật Doanh nghiệp và các văn bản pháp luật có liên quan; xác định vị trí, chức năng, quyền và cơ chế bảo đảm để công đoàn thực hiện tốt chức năng trong thập kỷ mới.
Tôi thống nhất với bốn nguyên tắc sửa đổi Luật Công đoàn năm 1990 trong tờ trình. Căn cứ Điều 10 Hiến pháp năm 1992 quy định: công đoàn là tổ chức chính trị xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động. Không quy định cho công đoàn thực hiện chức năng đại diện. Do đó, tôi đồng tình với Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Pháp luật là công đoàn chỉ thực hiện chức năng chăm lo bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động để phù hợp với Hiến pháp năm 1992.
Theo giải trình của Tổng liên đoàn lao động thì Điều 1 của dự thảo luật là kế thừa Điều 1, Điều 2 của các luật công đoàn đã được ban hành trước đây. Nhưng tôi cho rằng 2 yếu tố quan trọng nhất đã bị đưa ra khỏi luật đó là bỏ nguyên tắc tự nguyện của người tham gia tổ chức công đoàn và không xác định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với tổ chức công đoàn. Tôi đề nghị 2 vấn đề trên cần phải được xác định ngay trong Điều 1 của dự thảo Luật Công đoàn (sửa đổi). Tôi đề nghị Điều 1, dự án luật được viết lại như sau: Công đoàn là tổ chức chính trị xã hội của giai cấp công nhân, của người lao động tự nguyện lập ra và dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, công đoàn thực hiện chức năng chăm lo bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của công nhân, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động gọi chung là người lao động tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, tuyên truyền vận động người lao động học tập nâng cao trình độ kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa...
ĐBQH Nông Thị Lâm (Lạng Sơn): Luật có nhiều điểm mới nhưng chưa được quy định rõ
Cần phải khẳng định công đoàn là thành viên của hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đây là điều rất cần thiết bởi vì Luật Công đoàn năm 1990 cũng quy định điều này.
Đối với việc đại diện cho tập thể người lao động ở những doanh nghiệp chưa có tổ chức công đoàn, tôi nhất trí như dự thảo luật, quy định công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có quyền và trách nhiệm đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp chưa thành lập công đoàn cơ sở. Tuy nhiên, tôi cho rằng đó chỉ là biện pháp tình thế trước mắt không mang tính chiến lược lâu dài, cần phải có hành lang pháp lý để nhanh chóng thành lập công đoàn cơ sở và quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp sử dụng lao động trong việc phối hợp, hỗ trợ tổ chức công đoàn thành lập và hoạt động.
Về bảo đảm hoạt động của công đoàn quy định tại Điều 24, tôi cũng băn khoăn. Điều 24 quy định rõ là Tổng liên đoàn lao động Việt Nam quyết định về tổ chức và cán bộ của hệ thống công đoàn. Quy định như vậy liệu có trái với các quy định của Đảng cũng như Luật Cán bộ, công chức hay không. Bởi vì cơ quan có thẩm quyền quyết định về bộ máy cán bộ biên chế là phải của Đảng cộng sản Việt Nam và của các tổ chức chính trị xã hội. Công đoàn cũng giống như các tổ chức chính trị xã hội như Hội phụ nữ, Hội nông dân, cựu chiến binh và Đoàn thanh niên. Nếu quy định như vậy thì các tổ chức đoàn thể khác thì sao? Có được quy định như vậy không? Về các tổ chức này từ trước tới nay, bộ máy và biên chế đều do Đảng quyết định về tổ chức biên chế và con người. Vì Đảng cộng sản của chúng ta là lãnh đạo toàn diện về công tác cán bộ, tôi đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu điều này có phù hợp không.
Một vấn đề nữa là trong dự thảo Luật Công đoàn có nhiều điểm mới về nội dung. Tuy nhiên, chưa có chế tài cụ thể; chưa sát với nhu cầu thực tiễn như vai trò của công đoàn cấp trên cơ sở như Điều 19 và bảo đảm điều kiện hoạt động công đoàn ở Điều 25 và bảo đảm cho cán bộ công đoàn ở Điều 26, tài chính Điều 27; luật sửa đổi còn bộc lộ một số bất cập đó là luật chưa đề ra một chế tài cụ thể nào cho đơn vị sai phạm, còn mang tính chung chung ở Điều 32; quyền của công đoàn các cấp và quyền của cán bộ công đoàn được quy định rất rõ, nhưng trong luật chưa nói rõ đến quyền lợi cụ thể của người lao động khi họ tham gia vào tổ chức công đoàn thì họ có quyền và nghĩa vụ gì. Theo tôi trong luật cũng nên xem xét và quy định một điều về quyền và nghĩa vụ của công đoàn viên.
ĐBQH Phạm Hồng Phong (Hậu Giang): Chưa nên kết nạp công đoàn viên là người nước ngoài
Về địa vị pháp lý của công đoàn, tôi chọn Phương án 1. Theo phương án này thì công đoàn được ghi nhận là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động. Công đoàn là thành viên hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam. Công đoàn có 3 chức năng là đại diện về quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động; tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập và nâng cao trình độ kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Việc sửa đổi Luật Công đoàn cũng như về địa vị pháp lý của tổ chức công đoàn là phù hợp với Điều 10 của Hiến pháp năm 1992
Đình công là sự ngừng việc tự nguyện có tổ chức của người lao động nhằm gây áp lực hoặc đe dọa gây áp lực nhằm buộc người sử dụng lao động phải nhượng bộ, đáp ứng một số đòi hỏi, yêu sách nào đó và yêu cầu phải có tổ chức lãnh đạo. Cho nên một cuộc biểu tình, một cuộc đình công bao giờ cũng phải có người tổ chức lãnh đạo. Pháp luật quốc tế cũng như luật pháp hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận và trao cho công đoàn quyền tổ chức và lãnh đạo đình công. Ở nước ta, Bộ luật Lao động (sửa đổi, bổ sung) năm 2007 cũng trao cho tổ chức công đoàn và đại diện tập thể lao động ở những nơi chưa có tổ chức công đoàn quyền được tổ chức và lãnh đạo đình công. Tuy nhiên, trong thực tế vì nhiều lý do đến nay có thể nói chưa có một cuộc đình công nào do công đoàn và đại diện tập thể lao động và những nơi có tổ chức công đoàn tổ chức và lãnh đạo đình công một cách hợp pháp. Điều này cho thấy cần thiết phải có sự sửa đổi một cách toàn diện các quy định về pháp luật đình công. Mặt khác, như đã nói ở trên, đình công bao giờ cũng đi cùng với công đoàn. Vì vậy, nên chăng Luật Công đoàn cần có các quy định rõ về công đoàn trong tổ chức lãnh đạo đình công, nhất là quyền và nghĩa vụ của các cấp trong tổ chức, lãnh đạo đình công. Theo tôi, có thể quy định thành một chương công đoàn tổ chức, lãnh đạo đình công trong Luật Công đoàn, không nên chỉ quy định ở một khoản của một điều. Từ đó mới thấy vai trò lãnh đạo của công đoàn trong việc đình công đúng theo pháp luật.
Hiện nay trên cả nước có khoảng 74 nghìn người lao động nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam, quan hệ lao động giữa người lao động là người nước ngoài với người sử dụng lao động tất yếu sẽ phát sinh mâu thuẫn, do đó, họ có quyền yêu cầu đại diện và được bảo vệ. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, không nên cho phép kết nạp công đoàn viên lao động là người nước ngoài tại Việt Nam bởi thứ nhất, về quản lý Nhà nước về lao động nhập cư ở nước ta còn hạn chế, để bảo đảm an ninh trật tự xã hội, không kết nạp lao động là người nước ngoài. Thứ hai, chức năng của công đoàn là có chức năng tham gia quản lý Nhà nước, tham gia kiểm tra, giám sát họat động của cơ quan Nhà nước. Vì vậy, nếu người lao động là người nước ngoài kết nạp là công đoàn viên tham gia quản lý, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước điều này là không hợp lý. Vấn đề nữa, ở nước ta công đoàn là tổ chức chính trị xã hội, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, hoạt động công đoàn chịu sự lãnh đạo của Đảng, nếu công đoàn viên hay lãnh đạo công đoàn là người nước ngoài có chịu sự lãnh đạo của Đảng hay không, có phục tùng và tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng hay không?
ĐBQH Trần Thị Hiền (Hà Nam): Thể hiện rõ chức năng của công đoàn
Điều 10 Hiến pháp quy định: "Công đoàn có vai trò chính là chăm lo và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác". Vậy tôi đề nghị Ban soạn thảo cần nghiên cứu bổ sung, sửa đổi theo hướng quy định và thể hiện rõ được chức năng của công đoàn trong việc chăm lo đời sống, vật chất và tinh thần của người lao động để bảo đảm thống nhất, phù hợp với quy định của Hiến pháp. Đây cũng chính là vấn đề mà người lao động rất cần khi tham gia tổ chức công đoàn.
Để cán bộ công đoàn yên tâm công tác, hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ là người đại diện bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động cần thiết phải có cơ chế bảo vệ cán bộ công đoàn như quy định tại Điều 25 của dự thảo luật. Vì cán bộ công đoàn cơ sở, nhất là cán bộ công đoàn ở các doanh nghiệp hầu hết là cán bộ bán chuyên trách, thực chất họ là người lao động làm việc theo hợp đồng lao động, chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động, đồng thời họ là những cán bộ công đoàn do người lao động bầu ra. Khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình, nếu cán bộ công đoàn cơ sở đứng về phía người lao động, bênh vực và bảo vệ quyền lợi cho người lao động sẽ gặp rất nhiều khó khăn từ phía người sử dụng lao động, thậm chí phải chịu những rủi ro nhất định như bị thuyên chuyển vị trí làm việc với điều kiện làm việc thu nhập thấp hơn. Do vậy, tôi đề nghị luật cần quy định rõ cơ chế bảo vệ cán bộ công đoàn, đồng thời đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc kỹ để quy định về cơ chế bảo vệ cán bộ công đoàn phù hợp với quy định của Bộ luật lao động về vấn đề này.
Khoản 5 Điều 12 dự thảo luật quy định về quyền và trách nhiệm của công đoàn tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế và xã hội. Tôi đề nghị cần ghi cụ thể hơn quyền và trách nhiệm của công đoàn trong việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách đối với người lao động. Đồng thời đề nghị bổ sung vai trò của công đoàn trong việc phối hợp với cơ quan chức năng xây dựng các tiêu chuẩn quy phạm an toàn về vệ sinh thực phẩm các bữa ăn của người lao động. Bởi vì trong thực tế, sức khỏe của người lao động tại các doanh nghiệp, cụ thể là chất lượng trong bữa ăn, việc chăm sóc y tế thực sự chưa được quan tâm đúng mức, thường xuyên xảy ra nhiều vụ ngộ độc thức ăn tại doanh nghiệp đối với công nhân lao động...
ĐBQH Trần Văn (Cà Mau): Nguồn kinh phí cho công đoàn rất quan trọng
Báo cáo tiếp thu, giải trình của cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật là Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đã trình bày rõ chủ chương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về tài chính công đoàn. Kể từ Sắc lệnh số 108 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Luật Công đoàn năm 1957 đến nay cũng như giải trình rõ về việc sử dụng nguồn kinh phí công đoàn. Trong đó có việc trích 2% quỹ lương thực trả cho người lao động làm kinh phí cho tổ chức công đoàn như thế nào được kiểm tra, kiểm toán, giám sát ra sao, mức độ ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm và sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như tại sao có sự khác biệt về trích lập kinh phí công đoàn giữa cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp của Việt Nam và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và sự cần thiết phải xóa bỏ sự phân biệt này.
Hiện nguồn ngân sách Nhà nước cấp cho tổ chức công đoàn còn rất hạn chế, rất khiêm tốn và chỉ mang tính chất hỗ trợ một phần xây dựng cơ sở vật chất cho tổ chức công đoàn Việt Nam. Kinh phí hoạt động của tổ chức công đoàn chủ yếu là từ đoàn phí công đoàn và kinh phí công đoàn 2%. Tôi cho rằng việc đơn vị sử dụng lao động, người sử dụng lao động trích nộp kinh phí cho hoạt động của tổ chức công đoàn có thể được xem là một khế ước xã hội về cộng đồng trách nhiệm giữa người sử dụng lao động, tổ chức đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động là tổ chức công đoàn. Theo các quy định hiện hành thì khoản tiền trích nộp kinh phí công đoàn được hạch toán vào giá thành sản phẩm dịch vụ, trong đó 60% kinh phí công đoàn được để lại cho công đoàn cơ sở sử dụng để chăm lo trực tiếp cho người lao động và tổ chức các hoạt động công đoàn tại cơ sở, chỉ có 40% kinh phí công đoàn được nộp lên công đoàn cấp trên cơ sở và phần lớn trong số đó cũng được sử dụng để phục vụ trở lại cho người lao động như chi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ công đoàn cơ sở, chi hỗ trợ cho người lao động có hoàn cảnh khó khăn, trợ cấp thăm hỏi cho người lao động khi ốm đau, tai nạn lao động. Nguồn kinh phí công đoàn sẽ tạo điều kiện để tổ chức công đoàn thực hiện tốt chức năng đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động thông qua thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể trong doanh nghiệp. Tuyên truyền giáo dục người lao động học tập nâng cao trình độ chính trị, trình độ văn hóa, tay nghề, hiểu biết pháp luật lao động, ý thức tổ chức kỷ luật để thực hiện tốt hơn nội quy lao động, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ tại doanh nghiệp. Giảm tranh chấp lao động, ngăn ngừa lãn công, đình công và người sử dụng lao động biết rõ là tất cả các hoạt động đó của tổ chức công đoàn đều nhằm hướng tới xây dựng một tập thể người lao động, hướng tới mục tiêu tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp để doanh nghiệp ngày càng phát triển bền vững và từ đó doanh nghiệp có điều kiện quay trở lại chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động tại doanh nghiệp ngày một tốt hơn, đó cũng là thực hiện nguyên tắc cùng thắng trong quan hệ lao động.