Càng nghèo càng dễ bị tổn thương

Minh Anh 22/10/2011 07:12

Trong cuốn Sổ tay hướng dẫn tái định cư do Ngân hàng phát triển Châu Á ấn hành năm 2000 đã phân loại nhóm dễ bị ảnh hưởng gồm những phụ nữ đơn thân đảm trách gia đình, trẻ em, người già và những nhóm dân tộc thiểu sổ. Đây là những đối tượng dễ bị tổn thương và ít có cơ hội tiếp cận với dịch vụ y tế, giáo dục.

Theo đánh giá của các chuyên gia, khả năng tiếp cận của người nghèo và dân tộc thiểu số với các dịch vụ y tế thấp hơn nhiều so với nhóm không nghèo hoặc dân tộc Kinh. Cụ thể dịch vụ y tế không được cung ứng đầy đủ và công bằng giữa các nhóm thu nhập khi xét theo tỷ trọng chi tiêu y tế và tần suất sử dụng các dịch vụ y tế. Đơn cử, đối với đồng bào ở miền núi, do địa hình đi lại khó khăn, mật độ dân cư thưa thớt, trạm y tế xã vẫn coi là nơi tin cậy nhất. Song cơ sở vật chất nơi đây chủ yếu về cơ bản vẫn nghèo nàn, thiếu đội ngũ bác sỹ, y tá có trình độ chuyên môn. Mới đây, tại cuộc hội thảo do UB Về các vấn đề xã hội của Quốc hội tổ chức về vấn đề sức khỏe sinh sản bà mẹ, trẻ em ở Sơn La và Cao Bằng, đại biểu của hai tỉnh này đều cho rằng, đối với phụ nữ dân tộc thiểu số, việc sinh đẻ chủ yếu vẫn diễn ra ngay tại nhà vì con đường từ nhà đến trung tâm xã có khi đã mất cả ngày đường. Cũng có trường hợp trạm y tế bên này sông, vào mùa nước lớn muốn sang sông cũng đành chịu... 

Càng nghèo càng dễ bị tổn thương ảnh 1
Ảnh: QuangDzung

Trong khi đó, các hộ nhà giàu, người dân ở thành phố tần suất sử dụng các dịch vụ y tế nhiều hơn. Nhiều cơ hội tiếp cận các cơ sở y tế nhà nước hoặc được chủ động lựa chọn bác sỹ giỏi, dịch vụ y tế chất lượng cao. Ngườâi nghèo và ngườâi dân tộc thiểu sốë có thể ít mắc bệnh hơn người giàu nhưng tỷ lệ mắc bệnh nghiêm trọng lại lớn hơn người giàu. Hơn thế, khả năng chi trả cho các dịch vụ y tế khi mắc bệnh nghiêm trọng thường thấp, phụ thuộc chủ yếu vào bảo hiểm y tế (BHYT). Trong khi mức độ bao phủ của hệ thống an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội (BHXH) dù được cải thiện, tuy nhiên khả năng tiếp cận của các nhóm yếu thế còn ít và thấp. Cụ thể, mức độ gánh nặng chi tiêu về y tế, chăm sóc sức khỏe vẫn còn khá lớn. Đồng thời, đây là nhóm rất dễ tổn thương về kinh tế trước một cú sốc liên quan đến kinh tế nào đó song việc tiếp cận đến các chính sách an sinh xã hội lại thấp nhất.

Theo đó, để giải quyết vấn đề này, các chuyên gia trong ngành Y tế đã đưa ra một số ý kiến như: thực hiện triệt để việc cấp thẻ BHYT cho 100% người nghèo; chú ý cấp thẻ cho những hộ cận nghèo; xem xét lại quy định cùng chi trả 5% chi phí BHYT theo hướng giảm hoặc bỏ hẳn tỷ lệ cùng chi trả BHYT; đầu tư mạnh mẽ hơn nữa vào hệ thống y tế, cả hệ điều trị lẫn hệ dự phòng nhằm nâng cao chất lượng phòng bệnh đầu tư nâng cấp hệ thống y tế cơ sở, trong đó có hệ thống các trạm y tế xã... Vài năm trở lại đây, thực hiện Đề án 1816 về việc cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới, nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cũng là một giải pháp hiệu quả góp phần “giảm tải” cho các bệnh viện tuyến trên. Đồng thời, giúp người nghèo có thêm cơ hội, điều kiện tiếp cận với các dịch vụ KCB chất lượng tại cơ sở...

Bên cạnh đó, theo đánh giá khả năng tiếp cận các dịch vụ giáo dục và đào tạo nghề rất khác biệt giữa các nhóm dân số; trong đó người nghèo và thiểu số cơ hội tiếp cận càng thấp. Theo điều tra mức sống dân cư tại Việt Nam, năm 1998, ở các vùng nghèo, dân tộc ít người thì sự tiếp cận giáo dục của người dân thấp và của các em gái thấp hơn các em trai. Do ở các vùng này thì sự phân biệt con trai, con gái còn khá phổ biến. (Trong tư tưởng của họ thì con gái chỉ cần học lấy cái chữ là được chứ không cần học nhiều, học nhiều cũng đi lấy chồng). Vì vậy, số năm đi học của nữ trong các nhóm xã hội thấp hơn nam. Theo thống kê, ở nhóm người nghèo, số năm đi học của nữ là 5 năm, nam là 6 năm. Tỷ lệ biết đọc, biết viết của dân số từ 15 tuổi trở lên là 93,5 phần trăm – tăng 3,2 phần trăm so với năm 1999. Tuy vậy, tỷ lệ biết đọc, biết viết của một số dân tộc như Thái, Khmer, và Mông vẫn còn thấp so với mức trung bình của cả nước. Đây là thách thức trong vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục và phát triển nguồn nhân lực của nước ta.

Để giải quyết thực trạng này, Nhà nước cần có những ưu tiên về chính sách dạy nghề, tạo việc làm cho các đối tượng yếu thế. Cụ thể như hỗ trợ giáo dục cho con em trong các gia đình nghèo, thực hiện miễn giảm học phí ở tất cả các cấp học cho con em các hộ nghèo, đối tượng yếu thế... Hỗ trợ cho con em đồng bào dân tộc thiểu số tiền đi lại, ăn ở và sách vở để đi học. Nhằm cụ thể hóa chủ trương này, ngày 11.5.2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định 49/2011/NĐ-CP, trong đó đã nêu ra những quy định cụ thể về hỗ trợ giáo dục, đào tạo cho những đối tượng khó khăn. Có thể thấy, đây là giải pháp quan trọng cho giảm nghèo bền vững trong tương lai cho người nghèo. Đồng thời, cần tăng cường hỗ trợ tiếp cận giáo dục và đào tạo nghề đối với những nhóm dân số yếu thế đặc biệt về vấn đề tài chính và mạng lưới cơ sở đào tạo, nhiều chuyên gia dân số đề xuất.

Minh Anh