Trang phục dân tộc - nét đẹp văn hóa cần gìn giữ

Thanh Nguyên 22/10/2011 07:12

Đến với nhiều bản làng trong hành trình du lịch văn hóa, không ít du khách phải ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của các cô gái khoác trên mình bộ váy áo dân tộc. Đó cũng được xem là dấu hiệu để nhận biết cũng như thể hiện bản sắc mỗi dân tộc. Tuy nhiên, từ nhiều năm nay trang phục của các dân tộc đang dần trở nên xa lạ trong đời sống sinh hoạt của họ.

Trang phục dân tộc - nét đẹp văn hóa cần gìn giữ ảnh 1
Ảnh: Hồng Loan

Bình Liêu, một huyện miền núi của Quảng Ninh có đến 95% số dân là đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn nếp sống sinh hoạt bình thường khó có thể nhận biết đâu là người Kinh đâu là người dân tộc thiểu số. Bởi tất cả đều mặc chung một loại trang phục của người Kinh. Điều này cũng đang diễn ra khá phổ biến ở nhiều dân tộc thiểu số khác. Trong một công trình nghiên cứu về vấn đề này của GSTS Vũ Dũng, Viện Tâm lý học cho rằng: “tỷ lệ những người mặc trang phục hàng ngày của dân tộc Kinh chiếm đa số. Số người mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình ít đi nhiều so với trước. Đây là một biểu hiện của sự đồng nhất văn hóa dân tộc qua trang phục. Các dân tộc thiểu số tiếp nhận giá trị của dân tộc Kinh mà họ cho là phù hợp và hữu ích đối với họ”.

Chị Thào Thị Xinh, dân tộc Mông ở huyện Quản Bạ, Hà Giang chia sẻ: “tôi chỉ mặc trang phục dân tộc mình vào ngày lễ, ngày tết thôi, còn khi đi lao động thì mặc vào làm việc khó lắm”. Trang phục của không ít dân tộc rất cầu kỳ, có khi mất đến vài năm mớái làm xong một bộ. Ví dụ, một bộ áo dân tộc Mông tính từ khi trồng lanh đến xe lanh, dệt vải và thêu thùa, khâu vá thành bộ trang phục hoàn chỉnh nhanh nhất là một năm, trung bình là một năm rưỡi, cho nên một bộ váy áo Mông phải được sử dụng ít nhất 10 năm đến 15 năm, hoặc lâu hơn. Trong khi đó, trang phục quần áo phổ thông thì giá thành rất rẻ và rất tiện lợi cho mọi hoạt động, mọi môi trường. Đây là những nguyên nhân cơ bản khiến cho trang phục của đồng bào dân tộc không còn phổ biến trong đời sống người dân tộc thiểu số.

Bên cạnh đó, không ít ý kiến cho rằng, việc mai một các làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống cũng là một trong những lý do. Thực tế, các sản phẩm của dệt truyền thống thường chỉ phục vụ chính những người làm. Các làng nghề dệt truyền thống khó đứng vững khi nó chỉ mang tính tự cung tự cấp đơn thuần mà không có thị trường tiêu thụ. Không còn ai mặn mà với nghề dệt truyền thống nên nguy cơ các trang phục dân tộc ngày một hiếm hoi là điều không tránh khỏi. Đối với mỗi dân tộc ngoài chữ viết, ngôn ngữ thì trang phục cũng là một nét bản sắc quan trọng, nhằm phân biệt sự khác nhau giữa các dân tộc. Khi một trong những yếu tố này mất đi sẽ dẫn đến nguy cơ mai một nét đẹp văn hóa của dân tộc đó.

Khắc phục thực trạng này, nhiều địa phương đã khôi phục lại các làng nghề dệt truyền thống, kết hợp với du lịch. Cụ thể, sản phẩm dệt được trưng bày và bán cho khách du lịch. Người dân có thu nhập từ chính nghề truyền thống của mình. Đồng thời khách du lịch cũng có thể được tham quan xưởng dệt,  và tận mắt chứng kiến các công đoạn dệt thủ công được thể hiện trên đôi bàn tay khéo léo của những người thợ. Việc tiếp cận thường xuyên và thu được lợi nhuận từ công việc dệt truyền thống sẽ giúp người dân trở lại với nghề. Việc làm này vừa bảo tồn được giá trị văn hóa truyền thống, vừa phục vụ tốt cho khách tham quan du lịch lại tạo nguồn thu nhập cho đồng bào. Và cách đây chưa lâu, Bộ VH, TT và DL và Ủy ban Dân tộc đã phối hợp tổ chức chương trình Trình diễn trang phục truyền thống các dân tộc.  Hy vọng với sự nỗ lực từ địa phương đến các cơ quan liên quan, trang phục dân tộc sẽ trở lại đời sống mỗi dân tộc, làm phong phú thêm vốn văn hóa truyền thống của dân tộc Việt.

Thanh Nguyên