Trên dòng sông mưa (Phần 3)
Truyện của Tim O’Brien (Mỹ)

Trần Tiễn Cao Đăng dịch 28/09/2011 07:17

>> Trên dòng sông mưa (Phần cuối)

>> Trên dòng sông mưa (Phần 2)

>> Trên dòng sông mưa (Phần 1)

Trên dòng sông mưa (Phần 3)<br><i>Truyện của Tim O’Brien (Mỹ)</i> ảnh 1
Minh họa của Vũ Huyên

Dẫu vậy, tôi có linh cảm rằng ông đã biết. Ít nhất là về cơ bản. Xét cho cùng, đây là năm 1968, đám thanh niên đang đốt thẻ quân dịch, và Canada chỉ cách một quãng thuyền. Elroy Berdahl chẳng phải là dân quê mùa thô kệch. Giường ông nằm, theo tôi nhớ, ngổn ngang những sách và tạp chí. Ông hạ sát ván tôi trên bàn cờ đam mà chả cần tập trung gì mấy, và, những lúc hiếm hoi cần đến lời nói, ông có cái kiểu nén chặt các ý tưởng lớn thành những gói ngôn từ nhỏ, bí hiểm. Một chiều nọ, ngay khi mặt trời lặn, ông chỉ vào một con cú đang lượn vòng trên cánh rừng được chiếu rọi trong màu tím về phía Tây.

“Này O’Brien”, ông nói. “Chúa Giêsu đấy”.

Con người này thật sắc bén - ông hiếm khi bỏ sót cái gì. Cặp mắt như dao cạo đó. Thỉnh thoảng ông bắt gặp tôi đang nhìn chăm chăm ra dòng sông, bờ phía xa kia, và tôi hầu như nghe được những cái lẫy khóa kêu lách cách trong đầu ông. Có thể tôi nhầm, nhưng chắc là không.

Một điều tôi tin chắc, đấy là ông biết tôi đang có chuyện vô cùng khó xử. Và ông biết tôi không thể nói về chuyện ấy. Chỉ cần một lời sai - hay thậm chí một lời đúng - là tôi sẽ biến mất. Tôi đang rất bồn chồn kích động. Da tôi nghe quá căng. Có một tối nọ sau khi ăn tối tôi nôn mửa, liền quay về lều mình nằm một lát rồi lại nôn; lần khác, lúc giữa trưa, tôi toát mồ hôi và không sao dừng được. Suốt mấy ngày liền tôi cứ váng vất vì buồn. Tôi không ngủ được; tôi chẳng nằm cho yên được. Đêm tôi cứ trăn qua trở lại trên giường, nửa thức nửa mơ, cứ mường tượng mình lẻn xuống bờ sông, âm thầm đẩy một trong mấy chiếc thuyền của ông già xuống sông rồi chèo sang bên Canada. Có những lúc tôi e mình đến nước phát rồ mất. Tôi không còn biết nổi đâu trên đâu dưới, tôi cứ thế rơi, và đêm khuya tôi nằm đó nhìn những hình ảnh kỳ quặc xoáy ngang qua tâm trí tôi. Bị Tuần tra Biên giới săn đuổi - nào trực thăng nào đèn rọi nào chó sủa - tôi cứ thế sầm sầm chạy qua rừng, tôi bò bốn chân tay - người ta réo tên tôi - luật pháp siết lại từ bốn phía - ban tuyển quân ở thị trấn quê tôi và FBI và Cảnh sát Cưỡi ngựa của Hoàng gia Canada. Tất cả có vẻ vừa điên rồ vừa không thể có thật. Hai mươi mốt tuổi, một gã trai bình thường với những giấc mơ và tham vọng rất bình thường, chỉ muốn mỗi một điều là được sống cái cuộc đời mình sinh ra để sống - sống như mọi người vẫn sống - tôi thích bóng chày thích hamburger thích Coke vị anh đào - thế mà giờ tôi ở đây mấp mé bên lề kiếp lưu vong, vĩnh viễn rời xa quê hương, chuyện đó có vẻ vừa không thể xảy ra vừa khủng khiếp vừa buồn thảm.

Tôi không biết làm thế nào tôi đã gượng qua được sáu ngày ấy. Hầu hết tôi không còn nhớ được. Có hai ba buổi chiều, để cho qua thời giờ, tôi giúp Elroy soạn sửa khu nhà nghỉ cho mùa đông, quét dọn các túp lều và kéo thuyền lên bờ, những việc vặt giúp thân thể tôi nhúc nhích. Những ngày đó lạnh và sáng sủa. Đêm thì tối om. Một sáng nọ ông già chỉ cho tôi cách chẻ củi rồi xếp thành đống, và suốt vài giờ chúng tôi lẳng lặng làm việc phía sau căn nhà ông. Tôi nhớ là, đến một lúc, Elroy đặt vồ xuống nhìn tôi hồi lâu, môi ông dẩu ra như thể đang tạo hình cho một câu hỏi khó, nhưng rồi ông lắc đầu và tiếp tục làm. Sự tự chủ của con người này thật đáng kinh ngạc. Ông chả bao giờ tọc mạch dò hỏi. Ông chẳng bao giờ đặt tôi vào cái thế buộc phải nói dối hay chối quanh. Đến độ, tôi hình dung, sự thâm trầm của ông tiêu biểu cho vùng này của Minnesota, nơi sự riêng tư vẫn còn được người ta kính trọng, và thậm chí dù tôi là một kẻ kỳ hình dị tướng đến độ kinh khiếp - bốn tay ba đầu - đi chăng nữa thì ông vẫn sẽ hiểu rằng lời nói không đủ. Vấn đề đã nằm ngoài mọi bàn luận. Suốt mùa hè dài ấy tôi cứ lật lui lật tới hết lý lẽ này đến lý lẽ kia, những được và mất, và đó không còn là một câu hỏi có thể quyết được bằng một hành vi thuần lý tính nữa. Trí tuệ đã trỗi dậy chống lại cảm xúc. Lương thức tôi bảo tôi chạy trốn, nhưng có một thứ lực phi lý và mạnh mẽ nào đó cưỡng lại, như một trọng lượng lôi tôi về phía cuộc chiến. Rốt cuộc nó trở thành cảm giác xấu hổ, thật ngu ngốc. Nỗi xấu hổ nóng hổi, ngu ngốc. Tôi không muốn người ta nghĩ xấu về tôi. Cha mẹ tôi, không, anh chị em tôi, không, thậm chí những người ngồi ở cà phê Gobbler cũng không. Tôi xấu hổ vì có mặt ở đó, ở Tip Top Lodge. Tôi xấu hổ vì lương tâm của mình, xấu hổ vì đang làm điều phải.

Chút gì đó ở điều này ắt hẳn ông Elroy hiểu. Không phải chi tiết, dĩ nhiên, nhưng là cái sự thực hiển nhiên rằng đang có một nan đề khó giải.

Mặc dù ông già chẳng bao giờ gặng hỏi tôi về nó, nhưng có một lần ông đã tiến gần đến chỗ buộc tôi phải nói thẳng ra toàn bộ sự việc. Lúc ấy xế trưa, hai chúng tôi vừa ăn xong, đương uống cà phê ăn tráng miệng thì tôi hỏi ông xem tôi phải trả bao nhiêu, cho đến giờ tôi nợ bao nhiêu. Mãi một hồi lâu ông già nheo mắt nhìn tấm khăn trải bàn.

“Ờ thì mức căn bản là năm mươi đô một đêm”, ông nói. “Không tính tiền ăn. Bốn đêm rồi phải không?”

Tôi gật. Tôi có ba trăm mười hai đô trong ví.

Elroy vẫn dán mắt vào khăn bàn. “Nhưng đấy là giá lúc vào mùa. Để cho công bằng, tôi nghĩ ta có thể hạ xuống chút đỉnh”. Ông ngả người vào ghế. “Theo cậu bao nhiêu là hợp lý?”

“Cháu chả biết”, tôi nói. “Bốn mươi?”

“Bốn mươi, được. Bốn mươi một đêm. Còn ăn thì sao, thêm một trăm nữa nhé? Tổng cộng hai trăm sáu mươi?”

“Chắc vậy”.

Ông nhướn mày. “Nhiều quá hả?”

“Không, vậy là vừa. Được rồi. Nhưng mà mai… chắc mai cháu đi thì hơn”.

Elroy nhún vai và bắt tay dẹp bàn. Ông bận rộn với đống bát đĩa một hồi, vừa làm vừa huýt sáo như thể vấn đề vậy là dàn xếp xong. Sau khoảng một giây ông vỗ hai tay vào nhau.

“Cậu biết chúng ta quên gì không?” Ông nói. “Quên tiền công. Mấy việc vặt cậu đã làm ấy. Việc mình phải làm là tính xem thời gian làm việc của cậu quy ra được bao tiền. Việc làm gần đây nhất của cậu - mỗi giờ cậu kiếm được bao nhiêu?”

“Không đủ”.

“Kém à?”

“Dạ, hơi kém”.

Thế là, chậm rãi, dẫu không định nói dài dòng, tôi kể cho ông nghe về những ngày làm ở nhà máy thịt heo. Thoạt tiên ấy chỉ là đơn thuần thuật lại các sự việc, nhưng chưa kịp ngăn mình lại thì tôi đã bắt đầu nói về những cục máu đông về khẩu súng nước về cái mùi đã ngấm vào da không làm sao gột đi được. Tôi cứ thế kể hồi lâu. Tôi kể về tiếng heo kêu eng éc trong giấc mơ, về âm thanh người ta giết heo, người ta xả thịt heo, về chuyện đôi khi tôi choàng tỉnh dậy nghe cái mùi heo nhầy mỡ đó trong cổ họng mình.

Khi tôi nói xong, Elroy gật với tôi.

“Ừm, nói thật”, ông nói, “khi cậu mới tới đây, tôi đã tự hỏi chuyện đó. Là cái mùi đó mà. Mùi nghe cứ như cậu khoái thịt thăn heo đến mức kinh hồn ấy”. Ông già hầu như mỉm cười. Ông khịt khịt mũi, đoạn ngồi xuống với một cây bút chì và một mảnh giấy. “Vậy làm cái nghề cu li đó cậu kiếm được bao nhiêu? Mười đô một giờ? Mười lăm?”

“Ít hơn”.

Elroy lắc đầu. “Cứ cho mười lăm đi. Cậu làm ở đây hai mươi lăm giờ, dễ mà. Tính ra là tổng cộng ba trăm bảy lăm đô tiền công. Trừ hai trăm sáu chục tiền phòng với tiền ăn, tôi còn nợ cậu một trăm mười lăm”.

Ông rút bốn tờ năm chục ra khỏi túi áo, đặt lên bàn.

“Coi như sòng phẳng nha”, ông nói.

“Không”.

“Cầm lấy. Đi mà cắt tóc”.

Món tiền nằm trên bàn suốt buổi chiều hôm đó. Khi tôi quay về lều mình, nó vẫn ở đấy. Tuy nhiên, sáng hôm sau, tôi thấy một cái phong bì giắt vào khe cửa phòng tôi. Trong phong bì là bốn tờ năm mươi đô và một mẩu giấy ghi mấy chữ, QUỸ PHÒNG KHI KHẨN CẤP.

Ông già biết.

Nay nhìn lại sau hai mươi năm, đôi khi tôi tự hỏi phải chăng các sự kiện mùa hè năm ấy đã không xảy ra ở một chiều kích khác, nơi mà cuộc đời ta hiện hữu trước khi ta sống nó, và sau đó nó đi đâu. Chẳng có gì có vẻ là thực cả. Suốt thời gian lưu lại Tip Top Lodge tôi cứ có cảm giác mình đã tuột ra khỏi bộ da của chính mình, treo lơ lửng cách đó chừng một mét trong khi một con lật đật thảm hại nào đó mang cái tên và bộ mặt tôi gắng sức tiến tới một tương lai mà nó không hiểu và không muốn. Cả bây giờ tôi cũng thấy được chính mình như hồi đó. Giống như là xem một bộ phim cũ tự quay mình: tôi trẻ trung rám nắng và khỏe mạnh. Tôi có lông tóc - nhiều lông tóc. Tôi không hút thuốc không uống rượu. Tôi mặc quần jeans xanh bạc thếch, áo thun trắng. Tôi có thể thấy mình ngồi trên bến thuyền của Elroy Berdahl một chiều nọ khi mặt trời sắp lặn, bầu trời màu hồng lấp lánh rực rỡ, tôi đang viết nốt bức thư gửi ba mẹ trong đó tôi kể tôi sắp làm gì, tại sao làm và tôi hối tiếc đến nhường nào vì chẳng bao giờ đủ can đảm nói chuyện với ba mẹ về chuyện đó. Tôi xin ba mẹ đừng giận. Tôi cố giải thích vài cảm xúc của mình, nhưng không đủ lời, thế nên tôi chỉ nói đó là một việc phải làm. Cuối thư tôi nói về những kỳ hè cả nhà tôi thường lên vùng quê phía Bắc này, ở một nơi gọi là Hồ Cá Trắng, nói rằng phong cảnh ở đây khiến tôi nhớ lại những lần tươi đẹp ấy. Tôi bảo ba mẹ là tôi ổn. Tôi nói với ba mẹ rằng khi đến Winnipeg hay Montreal hay đâu đấy thì tôi sẽ lại viết thư về.

Vào ngày cuối cùng mà tôi ở trọn vẹn tại Tip Top Lodge, ngày thứ sáu, ông già dẫn tôi đi câu trên dòng Sông Mưa. Chiều hôm đó nắng và lạnh. Một làn gió ngột ngạt thổi tới từ phía Bắc, làm tôi nhớ lại con thuyền nhỏ dài hơn bốn mét tròng trành rất dữ khi chúng tôi chống thuyền từ bến ra. Dòng nước chảy nhanh. Tôi nhớ, bốn phía quanh chúng tôi là một thế giới rộng mênh mang, một cảnh nguyên sơ không người, chỉ có cây cối, bầu trời và dòng nước trải dài ngút mắt. Không khí có mùi lành lạnh của tháng Mười.

Trong khoảng mươi mười lăm phút Elroy cho thuyền bơi về phía thượng nguồn, dòng sông gợn sóng màu xám bạc, đoạn ông ngoặt thẳng sang phía Bắc và để động cơ chạy hết ga. Tôi cảm thấy mũi thuyền nâng lên bên dưới tôi. Tôi nhớ gió reo trong tai tôi, âm thanh của chiếc mô tơ Evinrude cũ gắn ngoài thuyền. Trong một lát tôi không chú tâm đến một cái gì, chỉ cảm nhận cái lạnh rây rây trên mặt, nhưng rồi tôi chợt nghĩ ra là có một lúc nào đó ắt hẳn chúng tôi đã tiến sang thủy phận của Canada, băng qua cái đường chấm chấm ngăn giữa hai thế giới khác nhau, và tôi nhớ lúc đó chợt nghe ngực thắt lại khi ngẩng lên nhìn cái bờ xa đang tiến lại gần mình.

Trần Tiễn Cao Đăng <i>dịch</i>