Quan hệ cung - cầu lệch lạc, gốc rễ của lạm phát tăng cao

Hải Thanh 11/09/2011 07:44

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được dự đoán sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới. Phân tích sâu nguyên nhân của tình trạng lạm phát tăng cao hiện nay, thì thấy là do sản xuất còn hạn chế, sự lệch lạc của quan hệ cung – cầu. Do vậy, cần có những giải pháp tương thích, không nên dựa vào công cụ tiền tệ, để tránh tình trạng phải tăng nguồn cung tiền ra bên ngoài, tạo áp lực cho kiềm chế lạm phát.

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8 tăng 0,93% so với tháng 7.2011. Mặc dù mức tăng chỉ số giá tiêu dùng đã chậm lại, nhưng nếu tính bình quân trong 8 tháng qua thì chỉ số này là 17,64%. Như vậy, tuy chỉ số giá tiêu dùng có tăng chậm hơn các tháng trước nhưng mức độ khó khăn của người dân vẫn tiếp tục tăng lên. Đặc biệt là những hàng hóa, sản phẩm liên quan trực tiếp đến mỗi người dân là nông, lâm, thủy sản và hàng công nghiệp đều có mức tăng cao. Nhiều ý kiến cho rằng giá hàng hóa, dịch vụ sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới do động lực giảm giá từ việc xăng giảm 500 đồng/lít chưa thể tác động đến diễn biến thị trường. Hiện đang trong thời điểm mưa lũ hàng năm nên nhiều khả năng giá lương thực, hàng hóa sinh hoạt sẽ tăng trên một số địa bàn. Dịch bệnh trên vật nuôi chưa được khống chế hoàn toàn cũng tác động tới tâm lý tiêu dùng làm tăng giá thực phẩm thay thế. Ngoài ra, nhu cầu đi lại và nhu cầu đối với một số hàng hóa, dịch vụ mùa khai giảng, Tết Trung thu, tỷ giá có xu hướng tăng, giá vàng vẫn ở mức cao và còn diễn biến phức tạp, tâm lý kỳ vọng lạm phát trước việc tăng lương tối thiểu vùng khu vực doanh nghiệp cũng là những nhân tố gây sức ép tăng giá thị trường.

Tuy nhiên, ảnh hưởng lớn nhất đến giá hàng hóa là chi phí sản xuất tăng do tăng giá một số loại chi phí đầu vào chủ yếu. Theo tính toán cấu trúc chi phí từ bảng cân đối liên ngành thì ảnh hưởng trực tiếp từ các chi phí đầu vào của sản xuất (một số chuyên gia gọi là chi phí đẩy) như xăng, dầu, điện, than, lãi suất… đến giá thành là khoảng 4% và ảnh hưởng lan tỏa đến chu kỳ sản xuất tiếp theo khoảng 6%. Như vậy, có thể thấy nếu CPI là thước đo sự khó khăn của người dân thì các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay còn khó khăn hơn nhiều.

Trước tình hình này đã có ý kiến đề nghị cần giảm lãi suất cho vay để thúc đẩy sản xuất, tránh rơi vào tình trạng giảm phát. Hơn nữa, dư địa của tăng trưởng tín dụng còn khá nhiều. Thực tế, nhiều ngân hàng đã giảm lãi suất cho vay ngay sau khi cuộc họp của Ngân hàng Nhà nước với 12 ngân hàng thương mại kết thúc. Nhưng có thể thấy các giải pháp để kiềm chế lạm phát dựa vào điều tiết dòng tiền trong xã hội mới giải quyết được phần ngọn của vấn đề. Nếu thắt chặt tiền tệ rồi lại mở rộng để thúc đẩy sản xuất sẽ lặp lại cách điều hành chính sách tiền tệ xen cài như trong ba năm trước. Thực tế, trong năm 2008, Chính phủ đã áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt để kiềm chế lạm phát. Nhưng sang đến quý IV.2009 sức mua giảm mạnh khiến CPI âm buộc phải tăng cung tiền để hồi phục sản xuất, tiêu dùng.

Gốc của tình trạng lạm phát tăng cao trong thời gian qua là từ khâu sản xuất và quan hệ cung cầu. Nếu nguồn cung dồi dào, hạn chế được tình trạng tích trữ, đầu cơ, làm giá thì sẽ khiến giá hàng hóa, dịch vụ phản ánh đúng giá trị, sức tiêu thụ của thị trường. Như vậy, thị trường sẽ vận hành đúng với nguyên tắc khi tăng một đồng từ phía cầu sẽ kích thích lan tỏa đến phía cung, từ đó lan tỏa tiếp đến thu nhập. Khi thu nhập tăng lên thì sức mua sẽ tăng lên và tiết kiệm của nội bộ nền kinh tế cũng tăng lên và hiển nhiên là nợ nần sẽ giảm đi. Theo Tiến sỹ Trần Du Lịch, doanh nghiệp cần thay đổi quan điểm từ tăng trưởng sang quan điểm trụ vững. Doanh nghiệp cần tổ chức lại sản xuất, kinh doanh để trụ vững trong giai đoạn khó khăn, hơn là đòi hỏi Nhà nước tăng nguồn cung tiền. Thực tế cho thấy, với áp lực từ phía doanh nghiệp, Chính phủ đã áp dụng chính sách nới lỏng tiền tệ trong năm 2010. Nhưng chính sách này đã để lại hậu quả cho năm 2011 là lạm phát tăng cao. 

Khi đã nhận thức rõ gốc rễ của vấn đề thì có lẽ các giải pháp để vừa kiềm chế lạm phát, vừa không ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, kinh doanh sẽ không thể dựa vào chính sách tiền tệ, tài khóa. Vấn đề cần quan tâm là lỗi hệ thống của ngành thương mại. Thực tế, tổng dư nợ tín dụng tăng trên 20% nhưng tín dụng nằm ở đâu không rõ, nên thị trường bất động sản hay sản xuất bị đình đốn chỉ là lường đoán. Vì vậy, cần tái cấu trúc hệ thống thương mại, để thị trường vận động lành mạnh, không bị thao túng bởi những đối tượng đầu cơ, găm giữ hàng.

Hải Thanh