Người bạn gái của tuổi thơ

NSƯT Ngọc Hiền 09/06/2011 07:24

Trong nhiều mảng hồi ức của tôi, chị hay được nhắc đến bằng cụm hình dung từ “cô bạn thân thiết của tôi từ hồi để chỏm” hoặc “người bạn gái từ hồi còn thơ bé”... Chị là ai?

NSƯT Mỹ Dung (bên trái) và NSƯT Ngọc Hiền tại Đà Nẵng
NSƯT Mỹ Dung (bên trái) và NSƯT Ngọc Hiền tại Đà Nẵng

 ... Chúng tôi thả bộ trên hè phố Bà Triệu, đoạn phố đong đầy kỷ niệm những ngày thơ ấu. Đây là đoạn cuối cùng của đường phố dài nhất Hà Nội ngày xưa. Nó được kéo tít tắp từ đoạn cắt quãng Hàng Khay – Bờ Hồ xuống tận Nhà máy Diêm (sau này là khuôn viên nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo và bây giờ là tòa nhà Wincom sừng sững góc phố).

Nhà Mỹ Dung bên số chẵn, nhà tôi bên số lẻ. Đấy là hai căn nhà đúc kiểu cổ nhìn chếch sang nhau, được thuê lại từ những người chủ sở hữu của chúng. Ngày xưa dân nghèo Hà Nội phần lớn ở nhà thuê, chẳng mấy người có nhà riêng. Những người ở nhà thuê được gọi là dân ABC. Gia đình tôi và gia đình Mỹ Dung là dân ABC! Nửa đầu thế kỷ trước, đoạn phố này yên tĩnh lắm – Ngày ấy, vẫn còn những chiếc xe tay cao ngất ngưởng, người phu kéo xe cầm càng chạy đằng trước, phô tấm lưng áo nâu bạc phếch đẫm mồ hôi.

Tôi và Mỹ Dung, “cô bạn thân thiết từ hồi để chỏm”, chơi với nhau từ ngày bắt đầu học lớp bét trường tiểu học Trí Đức ở gần nhà. Hai đứa cùng nhau chơi trò nhảy dây, trồng nụ trồng hoa, trốn tìm trên hè phố. Có những buổi chiều hè rủ nhau hái trộm những bông hoa móng rồng, cánh màu vàng cong cong thơm mùi mít chín ở hàng rào nhà bà chủ nhà in Trí Dân và có những buổi cùng chắt bóp chung những đồng bạc lẻ để dành trong ống tre, rủ nhau lên góc phố Bà Triệu – Chợ Đuổi (bây giờ gọi là phố Tuệ Tĩnh), xuýt xoa húp những thìa nước phở thơm lừng. Chao ôi, ngày còn bé, sao mà thèm đến thế mỗi khi đi ngang qua gánh phở đêm nghi ngút khói đặt ở đầu ngõ Bà Triệu, ngay sát góc căn nhà của gia đình Mỹ Dung. Ngày ấy, mỗi lần bị ốm phải nghỉ học, hạnh phúc biết bao khi được Mẹ cúi xuống bên giường thì thào hỏi: “Mợ mua phở cho con ăn nhé”...

1954, Hà Nội giải phóng. Cả hai đứa vào học lớp nhất trường nữ tiểu học Lê Ngọc Hân. Ngày nào bọn tôi cũng rủ nhau cùng đi dọc phố Tô Hiến Thành, băng qua đường ray tàu điện phố Huế, sang phố Nhà Rượu có nghĩa địa Tây (bây giờ là khu tập thể Nguyễn Công Trứ) để rẽ quặt đến trường ở phố Lò Đúc. Hai tà áo dài thẳng đuột, tung tẩy mỗi lần tan học. Năm ấy bọn tôi mới chừng trên dưới mười tuổi... Có lúc, thay đổi lộ trình, hai đứa rủ nhau đi lối phố Hòa Mã có Hội sở của “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ “– Thánh thất Cao Đài để thi thoảng nghe rơi vào trong không gian yên tĩnh những giọt piano thánh thót vọng ra từ một căn biệt thự giữa phố. (Hội sở này, sau hơn nửa thế kỷ vẫn ở nguyên chỗ cũ và có phần khang trang hơn).

Những ngày mưa to, phố Nhà Rượu và nghĩa địa Tây bị ngập. Mưa giăng trắng xóa đất trời. Những ngôi mộ xây bằng gạch chỉ còn được nhận ra qua chỏm cây thánh giá lấp ló trên mặt nước và những vòng hoa cườm nhiều mầu sắc. Táo tợn, bọn tôi còn bẻ những cánh hoa kết cườm ấy, đem về lấy chỉ xâu thành những chuỗi vòng tay vòng cổ, chẳng sợ gì! Những vạt áo dài được quặt về phía trước, buộc túm lại, cặp sách đội trên đầu, xắn cao quần, lội nước bằng thích. Khi về đến nhà, người ướt như chuột lột và dĩ nhiên bị ăn roi vì tội dầm mưa... May mà không ốm!

Tuổi thơ trôi đi êm ả. Tiếng ve rộn rã gọi nhau trên mỗi vòm cây và mầu đỏ của những cánh hoa phượng mỗi độ hè về báo hiệu một năm học nữa đã qua. Chúng tôi đã trở thành thiếu nữ từ lúc nào không biết...

Hai năm cuối cấp hai, tôi và Mỹ Dung không học cùng nhau. Nhưng đến đầu cấp ba, duyên số đưa đẩy, bọn tôi lại được ngồi chung một lớp, lớp 8B trường Tô Hiệu, phố Nguyễn Bỉnh Khiêm, bây giờ được cải tạo thành Viện Đông y thành phố.

Cả hai đứa đều được chứng kiến tình yêu tuổi học trò ngốc nghếch của bạn mình, cùng cười khúc khích mỗi khi thầm thì đọc cho nhau nghe những vần thơ tỏ tình vụng dại đặt dưới ngăn bàn. Lại là những lần cắp cặp cùng nhau đi về mỗi buổi đến trường. Lại là những lần học nhóm, vò đầu bứt tai vì những lượng giác, những hình học không gian rối rắm không tài nào hình dung nổi.

Ngày học cấp ba, tôi rất khá môn Trung văn. Các bạn trong lớp còn bán tín bán nghi tôi là người Trung Quốc. Lại vì cái họ Trương của tôi nữa. Thực ra trước đó, tôi đã có hai năm học ngoại ngữ ấy ở trường cấp 2 Trưng Vương với cô giáo Minh Dzư, người vừa từ Khu học xá Nam Ninh (Trung Quốc) trở về. Lên cấp ba, học lại chương trình Trung văn từ đầu, đương nhiên tôi “Tầu” nhất lớp. Ngược lại, ba năm cấp hai, Mỹ Dung học Pháp văn và Nga văn. Lên lớp 8, làm quen với những chữ tượng hình rắc rối, vẽ mãi không thành. Thế là tôi có dịp trổ tài giúp bạn.

Lúc ấy chẳng ai nghĩ rằng, chưa đầy mười năm sau, Mỹ Dung trở thành con dâu nhà thơ Thế Lữ và chồng chị, anh Nguyễn Đình Nghi, ông thầy của tôi, là một người rất giỏi Trung văn sau nhiều năm du học Trung Quốc.

Những kỷ niệm ngày xưa như một cuốn phim ký ức cứ lần lượt quay trở lại...

Năm học lớp 8, chúng tôi rủ nhau hoạt động trong đội văn nghệ nhà trường. Đội đồng ca tập bài Sông Lô của nhạc sỹ Văn Cao. Mỹ Dung có năng khiếu, được chọn vào đội múa đi tập điệu Dưới trăng. Tôi cũng chẳng kém, được chọn tập vở kịch Lộ tẩy. Anh Doãn Hoàng Giang năm đó mới 20, 21 tuổi, vừa là tác giả, vừa là đạo diễn !

Những bước đi chập chững trên sân khấu học đường ngày ấy đã dần hun đúc niềm say mê sân khấu của chúng tôi. Sau này, tôi còn chèo kéo Mỹ Dung tập một vai trong vở kịch Xế chiều. (Lâu quá rồi, không nhớ được tác giả là ai). Xế chiều ngày ấy là một vở kịch ngắn được các đội kịch ở nhiều trường phổ thông đua nhau dựng và biểu diễn trong các buổi sinh hoạt lửa trại. Đội kịch trường tôi được đánh giá vào loại xuất sắc nhất.

Mỹ Dung rủ rê tôi tập múa. Mặc dù biết mình múa chẳng đẹp bằng Dung, nhưng vì thân nhau, thích đi tập cùng nhau nên tôi hăng hái nhận lời. Chúng tôi tập điệu múa Hoa đăng, mỗi đứa hai tay có hai ngọn nến cắm trong hai chiếc bát sắt tráng men – nến cháy hết, nóng bỏng cả tay.

Chưa qua được học kỳ I lớp 8, Mỹ Dung phải nghỉ học vì gia đình gặp khó khăn. Suốt một tuần liền, trước giờ đi học, tôi cắp cặp sang nhà Dung. Hai đứa ngồi nhìn nhau, nước mắt lưng tròng. Thương quá, ba má Dung lại cố gắng thu xếp cho con tiếp tục đến trường. Khỏi nói tôi vui mừng thế nào và những bài học của một tuần lễ ấy, tôi cặm cụi ngồi còng lưng chép lại hết cho bạn mình.

Đi học, nhưng chúng tôi vẫn xin được đan phụ ở tổ đan len khu phố. Mỹ Dung đan rất giỏi, cần mẫn chăm chỉ, lại còn đủ kiên nhẫn, nhiều lần ngồi gỡ len rối giúp tôi mỗi khi tôi không tài nào gỡ được trong lúc nóng vội.

Chị còn thêu “xi mốc”(*) rất đẹp. Nữ công gia chánh hơn đứt bọn con gái trong lớp. Tôi hãnh diện vì bạn mình giỏi giang chứ chẳng hề ghen tị.

Anh Doãn Hoàng Giang còn giới thiệu chúng tôi tham gia Đội kịch Thanh niên của Thành đoàn TNLĐ Hà Nội. Tháng 2.1961, sắp học hết lớp 10, mê sân khấu quá, hai đứa rủ nhau trốn học, thi vào khóa diễn viên kịch đầu tiên của trường Điện ảnh và Sân khấu Việt Nam.

Tại mái trường này, Mỹ Dung đã tìm thấy hạnh phúc đích thực của mình. Trước đó, chị đã có một tình yêu đầu tiên bị đổ vỡ...

Vốn là một người con gái hiền lành và dung dị, sự đổ vỡ ấy đã làm chị mất thăng bằng. Gặp anh Nguyễn Đình Nghi, Mỹ Dung đã được sưởi ấm, được an ủi và được yêu. Chị như được tình yêu chắp cánh, được trở lại nguyên vẹn là một thiếu nữ Hà Nội tinh khôi và yêu đời. Số phận đã mỉm cười với chị, đã đem lại tình yêu và hạnh phúc mà chị xứng đáng được nhận.

Một năm sau ngày ra trường, tháng 10/1965, chị và anh Nguyễn Đình Nghi làm lễ cưới. Sau đó là những ngày tràn ngập hạnh phúc.

Về đầu quân cho Đoàn Kịch trung ương, tiền thân của Nhà hát kịch Việt Nam, với sự giúp đỡ của đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, là chồng chị nhưng còn là một ông thầy giỏi, tận tình và nghiêm khắc, Mỹ Dung đã trưởng thành qua từng vai diễn và gặt hái được nhiều thành công. Chị được phong danh hiệu Nghệ sỹ ưu tú ngay từ đợt đầu tiên. Với hàng loạt vai diễn xuất sắc trong Âm mưu và hậu quả, Nhân danh công lý, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Vua Lia, Nghêu Sò Ốc Hến, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Trăng soi sân nhỏ... Mỹ Dung đã có chỗ đứng trong lòng những người yêu sân khấu. Chị là một gương mặt không thể quên khi nhắc tới lịch sử của Nhà hát kịch, “Anh Cả Đỏ” một thời của sân khấu cách mạng Việt Nam.

Tháng 2.2001, chồng chị, NSND Nguyễn Đình Nghi đã vĩnh viễn ra đi... Mỹ Dung sống trong nỗi buồn đơn lẻ. Mặc dù các con chị, cả dâu cả rể và các cháu nội ngoại luôn quây quần bên cạnh, nhưng nỗi trống vắng thì khó lấp đầy...

Chị tìm kiếm niềm vui trong việc tập dưỡng sinh chăm chỉ hàng ngày, trong những chuyến đi du lịch trong nước, ngoài nước với gia đình và bạn bè - mà bạn bè, những người yêu mến chị thì nhiều lắm...

Trước mặt tôi là bức ảnh chị chụp cảnh Hồ Gươm trong sương mờ buổi sáng. Bức ảnh làm tôi nhớ đến câu thơ của thi sỹ Xuân Diệu: Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng...

 Vài năm trở lại đây, trong những chuyến đi chơi xa, Mỹ Dung còn tìm được sự say mê mới trong vai trò một nghệ sỹ nhiếp ảnh nghiệp dư xuất sắc.

Tôi mừng cho bạn mình. Giờ đây đã bước vào tuổi xưa nay hiếm, chị vẫn tràn đầy niềm tin vào cuộc đời và niềm đam mê mỗi khi nhắc đến SÂN KHẤU - TÌNH YÊU của chị.

____________________________________

(*) Một kiểu thêu cổ, rất đẹp, tạo những nếp gấp duyên dáng ở cửa tay và ngực áo phụ nữ.

NSƯT Ngọc Hiền