Thần thoại X.D (Phần 1)
Truyện ngắn của VŨ TRƯỜNG GIANG
“Tất cả họ đều chết bởi những tràng đạn xối xả, những quả rocket bắn như mưa mặc dù giá của chúng trên thị trường vũ khí không hề rẻ. Những đứa trẻ, những cụ già gục trên bờ mương, cách đó mấy bước chân, mấy xác phụ nữ lõa lồ loang máu. Con kênh đỏ quạch đi. Rừng dừa cháy khét héo rũ cùng những ngôi nhà lá đổ tan hoang. Không hề thấy bóng dáng một tên du kích nào trong khu rừng, nơi mà lực lượng quân Cộng hòa cho đó là một căn cứ cộng sản”.(Báo New York Times số 50, tháng 12 năm 1959)

Ký giả Haviton của tờ New York Times đến Sài Gòn trong những ngày tháng có nhiều biến cố của cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam. Bài đầu tiên ông ta viết có nhan đề: Tố cộng - thủ đoạn của những tên đồ tể vô tri. Haviton ngửi thấy mùi xú uế, những nhớp nhơ bần khổ đến tội nghiệp trong luận điệu gây chiến của cỗ máy chiến tranh Mỹ đang từng giờ, từng ngày cổ súy, ủng hộ cho những chính khách mặt sắt được một vị thần chết cách một bờ Thái Bình Dương hậu thuẫn. Ông ta định đến tỉnh Kiến Hòa(1) và làm tiếp những phóng sự chết người trước khi MAAG(2) buộc ông phải xuất cảnh sớm. Sau khi viết bài phóng sự trên, Haviton đã lấy chiếc khăn tay thêu cờ Mỹ được ông mua tại một xưởng thêu ở Sài Gòn để lau nước mũi đang ri rỉ chảy ra. Một hành trình công lý đang bắt đầu để có thể chứng kiến sự kỳ ảo của cuộc chiến.
Tháng 1.1960, cờ đỏ phất lên…
Súng nổ chát chúa, người chết rải xác đầy trên cánh đồng vừa mới gặt. Mùi tanh nồng và hương lúa thơm quyện lại một, xoắn như cái chết và sự sống xiết lấy nhau trong tột cùng của bất hạnh. Cái mũi Bảy Quăn sục lên vị căm căm đến ngạt thở. Bảy Quăn, một thanh niên mới vào đời, chưa quen chiến trận, khiếp hãi trước cảnh đồng đội hy sinh quá nửa bởi pháo kích, bom, mìn và đạn. Không nên gặp chết chóc và lãng mạn cùng một lúc, chính chúng sẽ đầu độc tâm hồn ta, chỉ còn lại nỗi sợ và hận thù len lỏi trong từng mạch máu. Bảy Quăn chạy một mạch vào rừng dừa trước mặt, nhanh như con cá loòng toong quẫy đuôi xuống nước. Bảy chạy được một đoạn thì bị một tiếng gọi run run giật lại. “Đừng có… dzọt như dzậy!”, lại tiếp “Cứu… tui dzới!”.
Bảy quay lui, nhìn thấy một khuôn mặt bê bết bùn đất đang loạy quạy bên bụi điên điển trọc hoa. Bảy nhận ra đồng đội - anh Năm Trụi bị thương nặng ở chân, máu rướm ra bệt quệt với bùn, với cỏ. Tiếng súng ngoài kia vẫn nổ. Bọn thủy quân lục chiến xăm xăm tiến tới. Trên đường, tụi bảo an cũng tấp cập yểm hộ. Đơn vị tản mát, mỗi người mỗi ngả chỉ có Bảy là ở gần anh Năm nhất. Bảy quên hết sợ, cúi xuống vác tay anh Năm lên cổ hai người cùng chạy vào rừng dừa. Phía sau súng bắn lia lịa, rát bỏng.
Bảy Quăn thấy Năm Trụi chạy không nổi liền xốc Năm lên lưng lủi vào rừng dừa nước san sát. Bảy bì bõm lội một mạch không dứt hơi, dừng lại lúc này chỉ có chết. Tụi thủy quân lục chiến cơ động không chịu để yên, bám gót như đi săn. Cái bản năng buộc Bảy phải dừng lại quan sát khi con tim và lá phổi than phiền rằng… mệt. Bảy thấy trước mặt một con lạch nhỏ độ bốn sải tay, dưới lạch gốc bần còn xum xúp. Cạn. Bên kia là một rừng dừa xiêm trĩu trái, cây lá dưới gốc quây quần xanh um. Bảy lội xuống con lạch. Năm Trụi chớp mắt hỏi: “Đi đâu dzậy?” Bảy Quăn trả lời: “Tìm chỗ náu”.
Hai người qua lạch an toàn, không cá sấu, không lội sâu, không bùn lún. Nhưng lại bị súng ria sát sườn. Địch đã đuổi gần đến nơi. Bảy không thấy mệt nữa, cố gắng vận hết tất cả sức lực và trí khôn ra để đối chọi với hiểm nguy. Bảy xốc anh Năm lên, chạy ù vào rừng dừa cổ thụ. Tụi thủy quân lục chiến định lội qua lạch nhưng sợ đành xúi bọn bảo an lội xuống. Lạ thay thằng nào xuống cũng ngụp đầu, bùn sánh tràn vào miệng. Mấy tên chết ngạt. Thằng chỉ huy hãi quá liền mở đại miệng treo giải: “Bắn bỏ… bắn bỏ được thằng nào, tao thưởng”. Lính thủy quân lục chiến nghe thế trổ tài bơi lội nhảy ào xuống. Thằng nào thằng nấy cố bơi như đua giành cúp nhà binh. Chúng càng bơi càng thấy rừng dừa bên kia xa vời vợi, cảm giác như cái rừng dừa bên đó đang trôi. Bùn lại sánh. Cái giải thằng chỉ huy treo chẳng thằng nào lấy được.
Bảy và Năm dừng lại trước một gốc dừa xiêm xù xì, đầy rêu mốc. Bảy đứng thở. Năm ngồi bệt hai chân ra trước, cũng thở. Hít một hơi đủ không khí và sức lực, Bảy mới bắt đầu quan sát. “Chao ui, đang ở đâu dzậy này”.
Một rừng dừa san sát cây nọ xọ cây kia, cây trên cây dưới trung trúc như những ngọn núi. Dừa ở dây lạ thiệt, to bự chảng, thân không bạc mà xanh, màu xanh của thân cổ thụ rêu. Bảy tới gần một thân cây, dang tay ôm lấy nó, ôm mãi cũng chỉ đến một nửa tấm thân. Bảy Quăn gán ngay cho chúng là rừng dừa đại thụ. Gió ở đây mát, mát đến lạnh tóc gáy. Những lá dừa reo vi vút như tiếng ai hò man mát. Bảy thoáng rùng mình. Ngó xuống đất…
Năm Trụi nãy giờ cũng nhòm tới ngó lui đến mệt lử. Anh không còn nói được nữa mà thay bằng ngôn ngữ của thở, thở hồng hộc. Bảy tá hỏa. “Gì kỳ thế hả anh Năm?” Năm chỉ xuống chân, máu ứa ra một vạt rễ dừa. Bảy xốc anh Năm lên. “Được rồi, chịu khó tí nữa để tui tìm nhà mấy má coi”.
Bảy lại cõng Năm chạy. Trời chạng vạng, bóng tối lan đến nhanh. Đang chạy, Bảy vấp chân, té cái thụp. Bảy và Năm có cảm giác đang rơi hẫng hơ xuống. Ôi thôi, phen này chắc rụng xương mất.
Lạ thay hai người té êm như té xuống cái nệm. Bảy không dám mở mắt, sợ mở ra chỉ thấy toàn bóng tối và chết chóc. Anh Năm thì thở, rên rên: “Nước, nước! Bảy ơi!”. Bảy hoàn hồn: “Em đây”. Bảy mò bi đông, rớt đâu mất. Bảy mò tới anh Năm Trụi. Rờ trúng cái chân, máu ướt cả bàn tay nhoèn nhoẹt. Bảy quớ quýt hỏi: “Bịch nước anh đâu”. Năm chỉ vào sườn, nhưng chẳng thấy bịch đâu. Anh lại tiếp tục rên khát nước tiếp. Đầu Bảy Quăn như có tổ ong, mật ứa ra làm đặc sệt cả ý nghĩ. “Hộp quẹt”. “Đây, ở túi dưới”.
Bảy định thần, lấy tay đánh quẹt. Lửa sáng lên xanh xanh. Điều đầu tiên anh thấy là một nơi lạnh lẽo, ẩm ướt và đặc biệt… thơm, thơm kỳ lạ. Bảy đứng dậy và không tin cả thân mình không một vết xước, không một vết đau. Anh sờ thấy nước và đoán là có mạch ngầm ở đâu đây. Bảy xỏ túi lấy khăn định tẩm nước thấm miệng anh Năm. Que diêm sắp tàn. Bảy đi mấy bước đến góc hầm có thứ ánh sáng loa lóa nhờ que diêm phản chiếu. Que diêm tàn anh định đốt que khác. Có giọt nước rơi trên đầu Bảy. Bảy ngó lên, nước lại dột. Đầu anh như chạm vào thứ gì đó mềm mềm, nong nóng đến khó chịu.

Bảy đốt tiếp que diêm khác, đưa lên trên cao. Một màu đỏ rười rượi hiện ra, anh nhận thấy một sự khang khác đến kỳ ảo. “Gì lạ dzậy?” Bảy đụng vào một bóng nước đo đỏ. Nó mềm mềm, nong nóng y như đụng vào một trái tim. Diêm lại tắt. Lần này Bảy lấy một tờ giấy loại trong bọc ra đốt. Ánh sáng tỏa ra, anh dụi mắt trước một khung cảnh rờn rợn.
Trên trần, nhung nhúc những quả đo đỏ, có hình dạng giống trái dừa non lấp lánh. Anh với tay đụng vào lần nữa. Sự sống hiện lên, luồn vào vào từng mạch máu tay anh.
Anh Năm Trụi nằm dưới đất lại kêu khát. Bảy sực tỉnh người. Như có ai mách bảo, anh hái một trái lạ màu đỏ xuống, đoạn bổ ra, đưa vào miệng anh Năm. Lửa tắt. Bảy chỉ còn nghe thấy tiếng anh Năm uống soàm soạp, háo hức như người chưa hề bị thương. Tay Bảy bê bết nước sệt mà thơm từ thứ trái lạ đó. Anh đỡ Năm Trụi cho đến khi anh Năm uống hết nước trái lạ. Bảy lại lò dò tìm hộp quẹt. Tìm không có, Bảy nằm lăn ra mệt lử, hỏi anh Năm: “Sao rồi anh, đỡ khát chưa?”
Anh Năm Trụi hỏi lại: “Mày cho tao ăn thứ gì dzậy?” Bảy hốt hoảng: “Sao hả anh Năm, khó nuốt lắm à? Anh cảm thấy sao rồi?”. “Ngon quá chừng à, như ăn tiết canh vịt má tao làm dzậy. Tao khỏe re rùi à”. Bảy Quăn ngạc nhiên “Là sao anh?” Năm Trụi nói bô bô “Đã quá chớ sao”. Bảy ngạc nhiên “Em coi lại vết thương cho anh”. “Thôi, khỏi. Tao ngon lành rồi. Mày ngủ tí đi”.
Bảy Quăn định nói gì thêm nhưng cơn buồn ngủ kéo đến quá nhanh khiến Năm Trụi phút chốc thở phì phò. Bảy ngồi một lúc rồi cởi áo ra đắp cho Năm, xong cũng nằm lăn ra đánh một giấc nồng.
Sáng ra, Bảy mở mắt đầu tiên. Một thứ ánh nắng đồng bằng chắt chiu rọi vào lỗ hổng của cái hầm sau một mùa mưa ướt át. Bảy dụi mắt, ngồi dậy. Anh Năm còn nằm chợp giấc, dáng ngủ thấy thương, queo quắt như một đứa trẻ mắc bệnh. Bảy nhìn khắp căn hầm. Nói hầm thì không phải lắm, đó là một hang động. Mà hang động cũng không phải, hang động gì mà toàn rễ cây. Bảy đi về phía đám rễ cây. Kinh nghiệm của đứa con hơn hai mươi năm sống ở xứ Dừa cho Bảy biết chắc: rễ dừa. Rễ dừa bò tứ tung, không có màu nâu sẫm, nâu lợt lạt, màu ngó sen mà toàn một màu trắng, trắng như gạo. Cái rễ nhòm đúng thiệt là ngon con mắt. Bảy lại ngó lên trần. Những trái đo đỏ có nắng chiếu vào đẹp mê hồn. Những trái dừa mọng nước đỏ, đỏ đến thèm thuồng. Bảy nhòm xuống tay, tay sền sệt thứ nước đỏ hôm qua, y như màu máu. Bảy thấy đói, anh đứng dậy hái một trái ăn thử. Trái mọc ra từ những rễ cây, treo tòn ten. Bảy véo mạnh, trái dừa đỏ nằm gọn trong tay.
Đưa lên miệng ăn thử. Má ơi! Chết mất thôi, ngọt, thanh, mát, đặc và… đã. Người anh lâng lâng như ăn phải thuốc tiên, người nhẹ hều, thanh thoát, bụng dạ mát rượi, đói bay đi đâu mất. Bảy ăn thêm trái nữa thì anh Năm thức giấc.
Năm hỏi: “Ở đâu đây mày?”. “Dưới động dừa, dậy ăn tiếp dừa huyết nghen anh Năm”. Năm luớ quớ: “Gì hả Bảy, dừa huyết là cái cóc gì?”. Bảy trơ ra, không hiểu sao mình lại nói đến thứ dừa lạ đó. Mà thật ra đâu có lạ, nó là thứ dừa chứa máu mà, gọi là Huyết thì cũng đâu có sai. “Chính nó cứu anh hôm qua đó. Hôm nay, nó lại cứu tôi khỏi đói, ăn tiếp nè”. Năm bần thớ, ngớ người ra: “Ừ. Đúng à hen. Cho tao trái nữa đi Bảy”.
“Chân anh sao rồi?”. “Cũng đỡ đỡ rồi”. “Máu còn chảy nữa không?” Bảy đưa chân anh Năm lên, máu vẫn còn rướm rướm ra. Bảy lẹ làng cởi cái quần đen ra, xăm xoi vết thương. “Má ơi, đạn xoáy nguyên một lỗ to bằng trái bòn bon, thịt toe toét”. Như có ai mách bảo, Bảy Quăn đứng dậy, đi tới động dừa bứt mấy cái rễ dừa trắng. Anh nhai ra thành một thứ bã như cơm nếp giã nhuyễn rồi đắp vào chân Năm Trụi. Năm rên hừ hừ một chốc rồi nói như hét: “Tao lại khỏe re rồi mày ơi, thuốc gì kỳ dzậy”. Lại một lần nữa Bảy phát ngôn đến khó hiểu “Rễ tiên”.
Bảy để anh Năm nằm nghỉ trong động. Bảy đu mình leo lên trên mặt đất. Anh quay lại nhìn cái động thì tá hỏa. Té ra là đêm qua hai anh em ở trong một cái hốc dừa, một cái hốc to chưa từng thấy, to gấp đôi miệng giếng. Bảy liền loanh quanh khám phá cái rừng dừa này. Trời ơi, ở đây có đủ loại dừa luôn. Dừa xiêm, dừa lửa, dừa dứa, dừa dâu… đều có hết. Dừa không cao lắm nhưng thân to quá cỡ, gốc lại đặc biệt to hơn. Xem bộ dừa ở đây giống như cây nọc bình hơn. Trái dừa thì lủng lẳng treo đầy buồng. Đi độ vài vòng quanh rừng Bảy nhận ra đây là một cù lao nhỏ, bốn mặt đều có nước. Ước lượng bước chân to cỡ bằng cái sân bóng. Bảy leo lên một cây dừa cao để quan sát thì quả đúng thế thật. Anh hái mấy trái dừa rồi xuống. Trời bắt đầu ru gió. Lòng Bảy phơi phới một mùi vị xa xăm khó tả.
Cùng lúc đó, Haviton sắp có chuyến đi khảo sát về tỉnh Kiến Hòa. Ông ta được các cố vấn quân sự Mỹ giới thiệu tới các đơn vị hành quân, nơi có thể cung cấp cho ký giả những trang viết của thực tế chiến trường. Tuy nhiên, trước khi đi, Haviton muốn nghe một vài lời từ lương tâm nước Mỹ.
Cuộc đối thoại thứ nhất: giữa Haviton và cố vấn quân sự Richard Hoon.
Ký giả Haviton: Chào ngài cố vấn, ngài đã đến Việt Nam lâu chưa?
Cố vấn Richard Hoon: Từ ngày gia tộc họ Ngô được tâng bốc để nắm quyền đến giờ.
Ký giả Haviton: 1955? Ngài có thấy chúng ta đang phiêu lưu ở một vị trí chiến lược hết sức nhạy cảm này?
Cố vấn Richard Hoon: Vâng, tổng thống Eisenhower đã lấp chỗ trống. Tổng thống Kennedy đang cân bằng cuộc đối thoại không lời trong Chiến tranh Lạnh. Nếu gọi đó là phiêu lưu thì chúng ta đang dạo một khúc đàn êm tai cho ván cờ ở Đông Nam Á. Domino sẽ bị chặn đứng trước mãnh lực của một cường quốc văn minh nhất thế giới.
Ký giả Haviton: Các ngài có cảm thấy có tội với dân tộc này?
Cố vấn Richard Hoon: Không. Chính họ đang làm tội lẫn nhau. Tôi chỉ hướng đạo cho họ.
Ký giả Haviton: Cám ơn câu trả lời của ngài. Chúc ngài sớm có một viễn cảnh tốt đẹp. Chào ngài!
… Tư Xồm và Sáu Trọc theo chân giao liên đi từ Tân Phú lên thị xã. Tư Xồm dáng người to con mà ăn nói thì cộc lốc dù rằng đã ba mươi lăm lẻ. Sáu Trọc mới băm ba tuổi mà tóc chẳng còn mọc nổi, y chang đứa bé mới lọt lòng. Hai người đi bám chân giao liên, cùng luồn qua những hàng rào, lần mò qua từng thân dừa. “Nói là lên phố chớ thật ra là lên ngang ngoại thành gặp mặt anh em lấy hàng rồi dzọt dzề liền”. Đang đêm Tư Xồm oang oang “Con mẹ mấy thằng bảo an, giờ này mà còn thắp đuốc đi lui đi tới. Tui mà có B40 bắn bỏ tụi nó rồi”. Sáu Trọc chen ngang “Tội quá ông ơi. Mẹ cha gì ở đây. Đi nhanh mà còn về! Ít bữa rồi xả láng. Bọn nó kìm kẹp mình quá đáng, có chỉ thị là xông lên liền”.
Tư Xồm chịu nghe nhưng mặt mày cay cú: “Giáo với mác thì làm ăn gì với tụi nó”. “Dzậy mới tài”. Sáu cười khà khà “Ông lãnh binh Thăng lấy trái mù u mà còn dập cho tụi Pháp chạy tóe khói. Tụi mình ít ra cũng có vài khẩu mai phục cho ổn thì dư sức hạ tụi nó”. “Ừ, hén. Mà…”
Tư Xồm chưa dứt lời thì anh giao liên đi đầu ngã cái rập. Một ánh lửa tóe lên, hai người đi sau chạy tản ra, hét lớn: “Phục kích”. Một tràng trung liên nổ giòn, vai Tư Xồm dính đạn. Sáu Trọc nhảy bừa vào một bụi cây. Tư Xồm chửi “Con mẹ mày, bắn vai ông chảy máu”. Trung liên vẫn bắn rát, quật tung cành lá. Hai người còn lại chạy được một đoạn thì nghe tiếng “A!” thất thanh. Sáu Trọc nói loáng thoáng “Mày còn lựu đạn không, ném mẹ tụi nó đi”. Tư Xồm dù đau điếng người vẫn lấy mò thắt lưng lấy một quả, giật chốt, ném cái vèo. Lựu đạn nổ, trung liên câm họng. Tư ném thêm quả nữa rồi bò qua đường, gặp Sáu Trọc, Tư mừng quýnh “Cứu tao với mày ơi, vai tao toác rồi”. Hai người lủi theo đường cũ ra sông, gặp cái xuồng của một má đi chợ sớm. “Má ơi, cứu tụi con dzới”. Má chèo lại “Tao nghe súng nổ, biết là có phục kích rồi, tụi bây lên đây để tao chống đi. Khốn nạn mấy thằng trâu chó”.
____________________
1. Tên của tỉnh Bến Tre trước năm 1975.
2. Phái bộ cố vấn quân sự cao cấp của quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam