Định hướng, chiến lược xuất khẩu lao động thời gian tới sẽ như thế nào?

Minh Vân lược ghi 15/09/2010 00:00

Chiều qua, 14.9, UBTVQH đã cho ý kiến về Báo cáo kết quả giám sát Việc thực hiện chính sách, pháp luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Những vấn đề nổi lên sau giám sát đó là việc ban hành văn bản pháp luật, kết quả lao động đi làm việc ở nước ngoài, hoạt động của doanh nghiệp dịch vụ, việc thực hiện chính sách hỗ trợ và công tác quản lý nhà nước…

Phó chủ tịch QH Nguyễn Đức Kiên: Cần có sự kết nối giữa 2 giai đoạn để có đánh giá đúng, sát với thực tế

Thời gian giám sát còn ngắn tính từ khi Luật Đưa người lao động đi nước ngoài theo hợp đồng. Việc đưa người lao động đi nước ngoài làm việc kéo dài trong nhiều năm, do vậy cần có sự kết nối giữa 2 giai đoạn để có đánh giá đúng hơn, sát với thực tế hơn về tình hình đưa người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài.

Bên cạnh đó, cần đánh giá tính khả thi về chủ trương và việc đưa người lao động là người dân tộc thiểu số đi lao động ở nước ngoài trong thời gian vừa qua đang đặt ra vấn đề gì; những người bỏ ra ngoài làm, hết hợp đồng không về nước có đánh giá, nhận xét gì về những đối tượng này và hệ quả như thế nào; thực tế vay trả tiền vay của những đối tượng phải vay tiền. Đồng thời, Ban quản lý lao động đã được thành lập ở một số nước cũng nên đánh giá xem mô hình này như thế nào và cuối cùng là quản lý và sử dụng tiền đặt cọc của những người đi làm việc ở nước ngoài.

Phó chủ tịch QH Uông Chu Lưu: Trách nhiệm thuộc về ai…

Tôi xin hỏi những vấn đề sau: nguyên nhân tiêu cực của lao động Việt Nam ở nước ngoài có nhiều, nhưng trong đó có nguyên nhân do chi phí cho việc đi xuất khẩu lao động hiện nay có thể nói là chưa bảo đảm thực sự công khai, minh bạch, rõ ràng. Cho nên, người đi lao động phải chi phí rất lớn, mà lại là chi phí ngoài luồng, chi phí ngoài quy định. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc ra nước ngoài thì người lao động lại vi phạm pháp luật để có thể hoàn trả lại khoản chi phí bất hợp pháp khi đi ở trong nước. Không biết chỗ này các cơ quan quản lý lao động lâu nay đã có những giải pháp cụ thể như thế nào và hiện nay tình trạng này đã được xử lý đến đâu?

Vấn đề thứ hai là hiện nay có những trường hợp vi phạm các điều kiện hợp đồng lao động, như trước khi người lao động đi thì ký là sang làm ngành này, nghề này được hưởng lương như thế này... Nhưng sang đến nước đó rồi thì ngành, nghề có thể lại khác, điều kiện, chế độ khác. Vậy trách nhiệm thuộc về ai, xử lý vấn đề này như thế nào để bảo đảm cho quyền lợi người lao động?

Vấn đề thứ ba là vấn đề lớn hơn, trong Báo cáo cũng có nói đến là chuyển hướng, định hướng xuất khẩu lao động; không xuất khẩu lao động thủ công, lao động đơn giản mà xuất khẩu theo hướng chuyên gia, những người có trình độ, tay nghề cao để mang lại hiệu quả kinh tế cao và cũnậôt dựng hình ảnh tốt cho quốc gia. Vậy ở nước ta, chiến lược, giải pháp để thực hiện vấn đề đưa chuyên gia như thế nào?

Chủ tịch HĐDT K’sor Phước: Đã hình thành được bức tranh chung về đối tượng đi lao động ở nước ngoài

Báo cáo của Ủy ban Về các vấn đề xã hội; Báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội theo tôi, còn nặng về tình hình. Có thể, qua các Báo cáo này cũng đã hình thành được bức tranh chung, khái quát những nét lớn về đối tượng đi lao động ở nước ngoài, nhưng còn rất nhiều vấn đề cần phải được làm rõ hơn.

Quan tâm của tôi là mục đích của việc xuất khẩu lao động, yêu cầu về giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo. Giá như trong Báo cáo giám sát chứng minh được có bao nhiêu hộ thuộc diện hộ nghèo sau khi đi xuất khẩu lao động, 3 năm sau vẫn duy trì thoát nghèo một cách bền vững. Bởi vì có thể khi về nước họ có được khoảng vài chục triệu, nhưng rồi mấy năm sau lại tái nghèo. Điều quan trọng là làm sao đánh giá được về mặt xã hội tức là việc đi xuất khẩu lao động có giải quyết được căn bản việc làm không, có xóa đói giảm nghèo một cách bền vững không đối với những hộ có người đi lao động ở nước ngoài. Đây là điều tôi rất quan tâm nhưng chưa được giải đáp…

Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật Nguyễn Văn Thuận: Hiệu quả quảng bá hình ảnh người Việt Nam ở nước ngoài thế nào?

Báo cáo của Chính phủ cũng như Báo cáo của Đoàn giám sát chưa rõ được ý. Hiệu quả về kinh tế đã rõ, nhưng hiệu quả quảng bá hình ảnh người Việt Nam ở nước ngoài thế nào?

Thứ hai, có nhận định giữa đánh giá không khớp nhau, ví dụ trong phần thứ hai khi đánh giá chung trong Báo cáo đều khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước coi xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng lâu dài, nhưng đến phần kiến nghị lại cho rằng trong nhiều năm qua việc xuất khẩu lao động để góp phần giải quyết việc làm và phát triển kinh tế, việc làm mới trong nước ngày càng tăng, cần khẳng định chính sách theo hướng ưu tiên giải quyết việc làm trong nước và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đó là ưu tiên nhưng đối với người đi nước ngoài phải đáp ứng nhu cầu cao hơn người lao động. Trong Báo cáo lao động có tay nghề cao chiếm tỷ lệ rất thấp, chủ yếu là phổ thông, vậy định hướng như thế này không biết có vấn đề gì không, xuất khẩu lao động về lâu dài có phải chiến lược không?

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Hà Văn Hiền: Lao động hết hạn về nước, hoặc về trước thời hạn tiếp tục làm việc ở khu vực nào?

Tôi đề nghị cung cấp thêm số liệu về lao động hết hạn về nước, hoặc về trước thời hạn tiếp tục làm việc ở khu vực nào? Số lao động này có thể làm việc ở các khu vực hiện nay có nhu cầu lao động, bởi vì trên thực tế số doanh nghiệp trong nước có nhu cầu tuyển dụng lao động rất nhiều. Theo giải thích là hiện nay cơ cấu lao động giữa số đào tạo để đáp ứng với nhu cầu trong nước chưa cân bằng với nhau, trong khi các trường dạy nghề mở ra cũng không phải là ít. Nhu cầu lao động trong nước vẫn còn rất lớn nhưng chúng ta tiếp tục đưa lao động ra nước ngoài làm việc thì cơ cấu lao động mà phía nước ngoài cần đối với lao động của nước ta là như thế nào?

 Trưởng ban Dân nguyện Trần Thế Vượng: Đương nhiên trong quá trình thực hiện cũng có tồn tại…

Tôi thấy Báo cáo kết quả giám sát về cơ bản đã nêu được yêu cầu đặt ra đối với giám sát, trong đó có vấn đề đánh giá tình hình ban hành văn bản hướng dẫn luật, có đánh giá về kết quả việc thực hiện Luật đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, cũng khẳng định những mặt được, những mặt còn tồn tại, hạn chế và có nguyên nhân, kiến nghị cụ thể.

Đương nhiên trong quá trình thực hiện cũng có một số tồn tại như trong Báo cáo đã nêu lên. Ví dụ như về chính sách đối với người đi lao động ở nước ngoài. Chính sách của Nhà nước nên bảo đảm sự thống nhất, ví dụ trong bốn văn bản về cho vay, mức vay, lãi suất nhưng lại khác nhau. Theo tôi Chính phủ nên sớm xem xét rà soát lại văn bản này, có thể quy định vào một văn bản, không nên rải rác phân tán nhiều văn bản. Cũng là đi người dân tộc cũng là người nghèo, nhưng người này ở khu vực này đi vay được được 30 triệu, người khác chỉ được 20 triệu, người này thì lãi suất bằng 0, nơi kia thì lãi suất bằng nửa lãi suất của người nghèo, người khó khăn. Theo tôi, nên điều chỉnh…

Về quản lý các doanh nghiệp, nói chung đây là một lĩnh vực rất khó, không như là xuất khẩu hàng hóa. Đây là việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Nguyên chuyện đó đã đủ thấy đây là loại hình công việc rất phức tạp. Trong Báo cáo giám sát nói rằng không ít doanh nghiệp chưa coi việc phục vụ người lao động làm chính. Phục vụ người lao động là trách nhiệm của Nhà nước, chứ còn bản thân doanh nghiệp thì không biết có phải là phục vụ người lao động là chính không hay là kinh doanh phải có hiệu quả là chính? Nếu phục vụ thì không thể nào lấy làm chính và cuối cùng hiệu quả không có thì chắc là không thể tồn tại việc kinh doanh được.

Minh Vân lược ghi