Bến Mom
Truyện ngắn của Văn Giá

18/08/2010 00:00

Bến đò làng tôi gọi là bến Mom. Muốn đi con đường gần nhất từ thị xã về làng chỉ có qua bến này. Qua đò là tới làng. Con sông chảy sát bìa làng. Sông thủy triều. Vào mùa lũ, nước sông to lắm.

Chị tôi hơn tôi chín tuổi. Hôm về gặp chị, chị bảo, cậu này, hôm nọ chị về thăm u ốm, cả nhà đang ngồi chỗ bàn uống nước đây này, lúc bấy đã khuya lắm rồi, trăng ngoài sân vẫn sáng lắm, tự nhiên thấy một con bướm to nó bay vào nhà, cứ quanh quẩn trong nhà mãi. Cả bố, cả u, cả cậu Nga, cả mợ Thắm đang ngồi, ai cũng nhìn thấy. U bảo quái, hay là dì Dung về. Bố bảo ối dào, bà chỉ nói linh tinh. Cậu Nga lấy cái cán chổi xua đi, nhưng nó cứ bay mãi, đuổi thế nào cũng không ra. U bảo, ông ơi hay là hồn con bé dại nó về đấy, tôi thắp nén hương, ông ra ông khấn, xem thế nào. Nếu phải con nó sống khôn chết thiêng thì nó phù hộ cho chứ có làm sao. Bố nghe lời, ra khấn, thế là con bướm bay một vòng chỗ mọi người đang ngồi, rồi nó mới bay ra sân đấy. Chị nghĩ đúng là hồn dì nó về... Nghe xong, tôi thở dài, không nói gì. Tôi quay sang bố hỏi thế hôm ấy bố khấn thế nào. Thì ta bảo nếu phải hồn con thì sống khôn chết thiêng, về phù hộ cho bố mẹ, các anh chị em, các cháu chắt trong nhà ta bình an, mạnh khỏe, con ở dưới suối vàng nếu thiếu thốn thứ gì, báo mộng cho bố mẹ, cho các anh chị em con để bố mẹ lo, cả nhà thương con lắm. Thì khấn thế chứ còn khấn thế nào. Thế mà cũng lạ. Nó chao một vòng sát mặt tao với u mày rồi nó mới bay ra ngoài sân.

Tôi là kẻ được học hành nhiều nhất nhà. Bây giờ sống ngoài thị xã. Thỉnh thoảng mới về quê. Lần này về là vì ngày giỗ cô em mà bố mẹ tôi vẫn gọi là con bé dại. Nó tên Dung. Nó chết đuối ở ngoài sông. Con sông quê tôi chảy sát bìa làng. Sông thủy triều. Mùa lũ nước to lắm. Có năm nước tràn đê vào làng. Từ làng tôi muốn đi thị xã cho gần thì chỉ có một con đường duy nhất là đi đò sang bên kia sông rồi xuôi theo đê về thị xã. Còn nếu không muốn đi đò thì phải đi đường vòng, xa chừng hơn chục cây số. Bến đò Mom. Không biết cái tên ấy có từ bao giờ. Cứ theo suy luận của tôi thì cái bến đò này nằm cheo leo giữa một bên là đường sang sông và một bên là đường sang ngòi, con ngòi bắt ra sông. Từ bến đò này, sang sông là đi thị xã. Nếu sang ngòi là sang nhà chị tôi. Chị về làm dâu bên kia con ngòi bé tẹo, chảy ngoằn ngoèo, có một cái làng heo hắt nằm giữa cánh đồng, sát cạnh bờ ngòi. Thế mà cũng gọi là làng Phú Khê. Chữ nghĩa các cụ ngày xưa ghê thật. Đặt tên làng những mong sao cho làng Ngòi giàu có. Bến đò này nằm giữa cái mom sông đi về hai ngả. Hình thế nó thế thì đặt luôn là bến Mom. Quanh năm buôn bán ở mom sông. Chắc là cái chữ mom trong thơ cụ Tú Vị Xuyên ngày nào cũng mang nghĩa ấy. Có điều chỗ cụ nói đến có làm ăn buôn bán. Còn bến Mom làng tôi đặc nông dân, không một ai biết buôn bán là gì. Có vài gia đình làm nghề thuyền chài trên sông độ nhật. Chẳng biết sao dân trên bờ làm ruộng lại rất xem thường cánh thuyền chài. Cánh ấy bao giờ cũng đông con. Thuyền nào cũng một lũ lít nhít. Tất cả nằm trong khoang thuyền bé tẹo. Dân trên bờ nói vui, vợ chồng thuyền chài nằm sát nhau quá, bụng lại đói, đêm không ngủ được, chẳng biết làm gì bèn rủ nhau đi đẻ. Chả biết thế nào, ngày bé, tôi cũng theo lũ trẻ chăn trâu, hễ cứ thấy cánh thuyền chài đang thả lưới giữa sông là tất cả cùng đồng thanh réo: Thuyền chài ăn cá đỏ đuôi/ Đến mùa nước đục lấy b. mà ăn. Có hôm, người dưới thuyền rình bơi vào bờ, đuổi đánh. Cả đám chạy té re.

Năm ấy tôi chưa lấy vợ. Vẫn đang dạy học ngoài thị xã. Tuần vài ba buổi đạp xe về nhà ăn ghé cơm bố mẹ. Lương lậu không đủ sống. Chẳng biết làm thêm thứ gì. Đói vàng mắt. Lần nào về nhà, bố cũng giục lấy vợ. Lúc đầu còn ham về. Sau giục quá, ngại về. Mỗi lần về, mắt trước mắt sau thủ ít gạo ít sắn mang lên trường ăn thêm chống đói. Một trưa chủ nhật về quê ăn cưới thằng bạn học từ thời cấp ba. Rượu chè be bét xong, quá ngọ đạp xe về nhà. Đường trung du đỏ quạch. Bấy giờ tháng sáu ta. Ruộng đồng đã gặt xong hết. Mưa nhiều, nước nổi trắng đồng. Nắng trên đầu gay gắt. Đây là con đường độc đạo từ phố huyện trở về làng tôi. Suốt ba năm cấp ba tôi đi lại trên con đường này không biết bao nhiêu nghìn lần. Vị chi là bốn đời xe đạp đi tong. Toàn xe cà rỉ cà tàng. Không có tiền sắm xe mới. Xe cũ của nhà có sẵn, hỏng thì lại xe của anh của chị hùn vào cho tôi lấy cái đi học. Tôi được coi là cái thằng sáng dạ nhất nhà. Đang liêng biêng, thằng Vụ em con chú tôi hộc tốc đạp xe nhìn thấy tôi nó khóc rống lên, gọi to, anh ơi về nhanh lên, chị Dung chết đuối rồi. Nói được độc câu ấy, nó khóc nức nở. Tôi cũng khóc theo. Hỏi làm sao? Chị ấy chết đuối. Cứu được không? Chị ấy chết rồi. Người ta vừa mới chà câu liêm dưới đáy sông mới vớt được lên. Tôi vừa khóc hu hu vừa đạp xe theo xe thằng Vụ phóng như bay về thẳng sân kho. Một đám đông đang xúm xít. Tôi gạt mọi người lao vào. Ai đó ôm ngang người tôi. Tôi đổ ập người xuống sát em tôi đang đắp tấm chiếu. Khuôn mặt em bị che bởi tấm khăn trắng. Thấy tôi về, anh cả tôi, chị tôi, các anh em tôi đồng loạt khóc. Tang tóc quá. Lúc cạn hơi không thể gào lên được nữa bỗng có tiếng người đàn ông trầm trầm bên tai kể cho tôi nghe về cái chết của em tôi. Tiếng ông đều đều. Tôi cố tập trung nghe. Nhận ra đấy là giọng của ông chú họ. Ông bảo, con bé chết oan. Giá có người cứu ngay thì nó không chết. Lúc ông chạy ra tới sông thì mấy người thuyền chài đã lôi được em tôi lên bờ… Hôm đám tang, tất cả anh chị em tôi đi theo quan tài em tôi ra mộ. Bố mẹ tôi không được đi cùng. Ở làng quê tập tục không cho phép bố mẹ đưa con ra đồng, nhất là với người chết trẻ lại càng kiêng kỵ. Tôi nghĩ, bố tôi may ra còn vững đôi chút, chứ u tôi ở lại nhà làm sao chịu được. Kể ra cứ cho u tôi đi ra mộ cùng với các con để được khóc đứa con gái xấu số của mình cho thỏa thì chắc nhẹ lòng hơn… Trưa ngày hôm sau, cả họ hàng nhà tôi đứng bên bờ sông, chỗ vớt được Dung hôm trước để cho thầy cúng làm lễ bắc cầu gọi hồn lên bờ. Bố tôi u tôi vẫn không được ra cùng. Một dải khăn trắng dài dễ đến hơn hai chục mét nối từ mâm cúng trên đỉnh bờ đê chạy thẳng xuống tận mép nước. Họ bảo đấy là cây cầu để cho vong bước lên bờ. Chị gái tôi và mấy đứa em gái trong họ thỉnh thoảng lại khóc lóc kêu gào thảm thiết. Đến lúc làm lễ, thầy cấm ngặt không được khóc. Làm lễ mà khóc, vong nặng không lên bờ được. Thầy làm lễ đến hơn tiếng đồng hồ. Anh chị em tôi bơ phờ. Không ai nói với nhau câu nào. Thầy bảo hồn đã lên bờ được rồi. Mọi người thất thểu trở về nhà. Cái dải khăn trắng làm cầu ấy đến hôm giỗ đầu thì bố tôi đem hóa.

Con sông cạnh làng tôi như một hung thần. Tôi chưa bao giờ thấy thích thú tự hào gì về con sông này. Những ngày đi học đại học, mấy đứa hỏi thăm quê, khi nghe tôi kể về làng mình, chúng reo lên khoái chí. Tôi dửng dưng. Nơi chúng sinh ra không có sông nên chúng thích là phải. Chúng đòi theo về chơi. Con sông này ít nhất mỗi năm cũng phải nuốt chửng vào bụng nó một mạng người. Năm nào cũng như năm nào. Có khi phụ nữ, có khi trẻ con. Nhất là đám trẻ con đang tập bơi. Mỗi năm danh sách cứ dầy lên mãi. Năm nọ, ba đứa con trai nghều nghễu học cấp ba cùng chết. Có người bảo chúng rủ nhau chết tập thể do một lời thề nguyền nào đấy. Có người bảo đơn giản là cả ba đứa cùng tắm. Thằng thứ nhất sắp chết đuối, thằng thứ hai xuống cứu. Thằng thứ hai bị thằng sắp chết dìm xuống cũng sắp chết theo. Thằng thứ ba lao vào cứu. Thế là cả ba quấn chặt lấy nhau cùng chìm. Trẻ con đi thả trâu triền đê, mùa hè lao nhau xuống tắm xà xã. Người lớn mắng mỏ, răn đe như két, chúng mặc kệ. Bất cứ người lớn nào ở làng này đều biết bơi, và bơi giỏi cả. Đến như tôi, một thằng nhát cáy, theo chúng bạn học bơi, bao lần sặc nước, uống no bụng nước, rồi cuối cùng cũng biết bơi, bơi khá hẳn hoi. Bây giờ đã có vợ có con, ăn cơm nhà nước ngoài thị xã, mỗi khi về làng, đi trên đò, lần nào cũng vẩn vơ. Dưới làn nước sông xanh biếc kia vẫn ẩn chứa những điều gì đó thật bí mật. Bao nhiêu linh hồn vật vờ trên mặt sông rờn rợn. Muốn cúi xuống đong nước vào tay để vã lên mặt một cái cho mát nhưng lại vội rụt tay lại. Ngộ nhỡ có ai đó hay con gì đó cầm tay rút tuột xuống đáy sông thì… Bây giờ có các tiền chắc tôi cũng không dám xuống sông mà bơi nữa. Con sông nay đã khác xưa. Hay lòng tôi đã khác…

Em Dung của tôi năm ấy cũng đã lấy chồng. Cũng lại lấy chồng về bên mạn làng chị tôi. Con chị đi, con dì nó lớn. Chị em muốn có nhau sớm tối, thế là mai mối. Phải cái thằng không ra gì. Ở với nhau chưa đầy hai tháng, Dung phải bỏ về nhà đẻ. Sau này mới biết, thằng chồng học dở dang cấp ba, trượt lên trượt xuống, rồi bỏ học đi làm cửu vạn trên Lạng Sơn. Được đồng nào ăn chơi đĩ bợm hết đồng ấy. Khi thấy có một thằng cửu vạn người làng chết vì bệnh ết trên Lạng, người ta đánh điện gọi lên nhận xác con mang về, thế là ông bố tá hỏa đi tìm thằng này bắt về nhà. Về nhà không thích làm ruộng thì đóng gạch. Không thích đóng gạch thì xin chân bảo vệ ao cá của làng. Không thích làm bảo vệ thì bố mày sắm cho cái xe đạp mà đi buôn rau, chở hành chở tỏi ra chợ Long Biên mà đổ cũng đủ sống. Để mày cửu vạn là có ngày mất xác. Mất xác là vô phúc. Là nhục nhã. Thế là thằng này về. Nó nhập vào đám trai làng lêu lổng, tối tối đi các làng tán gái. Nó tán Dung. Xiêu xiêu. Hỏi bà chị gái. Chị về tìm hiểu, rồi sang bảo với bố mẹ. Nó cũng được, không đến nỗi nào. Đi cửu vạn được hơn năm về rồi. Bây giờ làm cái chân chạy máy xay xát tốt tiền ra phết, trông ra dáng lắm. Con nghĩ là được bố u ạ. Bố tôi bảo, tao hơi ghê ghê cái đám bốc vác thuê trên biên giới, toàn lũ du đãng đấy con ạ. Nghe mày bảo thế thì biết thế. Cũng cốt để hai đứa chúng mày sớm tối có chị có em. Chứ lòng tao cũng không thoải mái lắm. Con Dung thì mặt nở như hoa. Suốt ngày tí tớn mua mua sắm sắm, nào chăn hoa, màn tuyn, va li da, quần áo, gương lược… nghĩa là đủ lệ bộ của cô con dâu thôn quê. Trước khi đi lấy chồng, một hôm nó bảo, từ nay anh về thì chịu khó tự giặt giũ đi nhé, mà cũng liệu sớm sớm lấy vợ đi, không thì thành bố ghẻ đầu làng đấy. Nói xong nó cười. Tôi bảo, còi to cho vượt. Tao có thân tao lo. Lấy vợ bây giờ chết đói à. Hôm đám cưới, tôi chỉ đủ tiền mua mừng nó một cái chậu men Liên Xô. Nó thích lắm. Ngày ấy, chậu men được coi là thứ hàng sang rồi. Đám cưới nó cũng phải đưa dâu qua đò. Bố tôi dặn: Các ông các bà các cô dì chú thím các cháu có lòng đưa cháu nó về nhà chồng thì nhớ đi đường nào về đường ấy giúp vợ chồng tôi, đừng có đi một đường về một đường kẻo… Nói đến đây ông nghẹn lời, nuốt khan, ho dữ dội, rồi quay trở vào trong nhà. Hôm Dung mất, chị tôi ngất lên ngất xuống, cào cấu mặt mày, lảm nhảm mỗi một câu: Tại chị em ơi, tại chị em mới ra nông nỗi này em ơi… Hôm ấy, nó đi chợ thị xã bán cá trở về. Đang đứng cạnh mạn đò, bất thần sợi dây sắt neo thuyền khai thác cát đánh mạnh vào ngang cổ, Dung bị hất xuống sông. Thì ra cạnh hướng đò di chuyển có mấy chiếc thuyền của những người chuyên nghề khai thác cát xây dựng trên sông đang neo lại để hút cát. Lúc bấy giờ đang trưa, ít người qua lại. Trên đò chỉ có hai phụ nữ, một cháu bé. Chủ đò là bà cụ đã già. Đúng chỗ bến đò, nước ngòi đang chảy xiết ra sông. Con bé chìm nghỉm. Cái nón trắng trôi dập dềnh. Hô hoán lúc lâu mới có người chạy tới. Giữa dòng, nước xiết, lại sâu. Tất cả lắc đầu tuyệt vọng…

Đêm nay chị tôi ở làng bên kia ngòi đã về. Anh cả tôi, anh hai tôi, ba thằng em tôi có mặt đủ ở nhà. Bố mẹ tôi đã quá già sau nhiều năm lam lũ, đau buồn. Ngày mai là ngày giỗ thứ hai mươi của Dung. Nó là đứa em thứ năm. Nhà tôi có tám anh em, mất một đốt còn bảy. Ngồi nghe chuyện con bướm chị tôi kể, tự nhiên tôi mới nhớ ra cái chuyện đêm hôm trước của ngày em tôi mất. Tại sao tôi không bao giờ nhớ ra nhỉ? Tại sao bây giờ tôi mới nhớ ra. Không biết tôi có nên kể cho bố mẹ tôi và mấy anh chị em nghe không? Sợ bố mẹ tôi đau lòng thêm lần nữa. Lại nghĩ, tâm hồn những người dân quê khỏe lắm. Họ không ủy mị, thậm chí bệnh hoạn như tôi. Chắc là do tôi ních vào bụng lắm chữ mà thành vậy. Càng lắm chữ, càng sinh ra hèn yếu. Lắm chữ người ta hay đắn đo, tính toán thiệt hơn. Lắm chữ cũng sinh ra hèn hạ.

Cữ ấy, cả vùng quê tôi vẫn thắp đèn dầu, chưa có điện. Sáng hôm sau ở trường không có tiết dạy, mà trưa hôm sau lại có đám cưới thằng bạn học cấp ba trên huyện. Tôi về nhà từ chiều hôm trước. Định bụng chiều tối hôm sau lại xuống trường. Đêm im ắng. Cả nhà đã đi ngủ. Mình tôi ngồi ngoài bàn uống nước cạnh cửa sổ để đọc sách. Dưới ánh đèn dầu tù mù, tôi cố đọc. Thực ra thì tôi không ngủ được sớm nên phải lôi sách ra đọc. Người dân quê không hay thức muộn. Cả ngày cật lực trên đồng, cơm nước xong là díp mắt lại, trèo lên giường sớm. Tiếng lật giở từng trang sách trong đêm nghe sột soạt rất rõ. Đang để tâm vào trang sách, bất ngờ tiếng loạc xoạc loạn xạ khắp nhà. Tôi định thần lại, hiểu ra là tiếng con vật gì đó bay trong nhà. Con dơi? Con chim? Hay…? Một bóng đen quệt qua chiếc đèn dầu làm ngọn đèn suýt tắt. Tôi vội lấy tay che đèn, vặn bấc cho cháy to hơn. Chắc chắn đó là một con chim bay vào phòng đang tìm lối ra, hoảng loạn. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là phải mở toang hết cửa sổ, cửa chính để con chim có thể bay ra. Vừa lúc đó, con chim sà xuống, đậu ngay mép bàn tôi đang ngồi. Tôi vồ lấy con chim. Trượt. Nó bay vù đi. Tay tôi nhơm nhớp dính lông chim ươn ướt. Tôi vội mở hết các cửa. Tắt đèn. Ngoài trời sáng trăng suông. Không mưa. Không gió. Tôi chỉ còn biết đứng nép ngoài cửa, mong cho con chim bay ra. Bỗng bóng đen từ trong nhà lao vụt qua trước mặt. Bấy giờ mới dám chắc là con chim đã bay đi. Bất giác nhìn xuống bàn tay. Nhơm nhớp dính…

Nghe xong, bố tôi bảo: Thế sao hôm ấy con không nói ngay để bố làm lễ cúng? U tôi bảo: Con khờ quá. Chị gái tôi bảo: Giá như cúng được thì dì chẳng chết đâu nhỉ. Anh cả tôi bảo: Thế ngần ấy năm mà chú không nhớ ra à? Chị dâu tôi bảo: Chim sa cá nhảy mà. Thằng em trai út tôi bảo: Lúc ấy anh mới chỉ bằng tuổi em bây giờ chứ mấy. Tôi không nói gì. Bất giác các ngón tay vê vê vào nhau. Vẫn nhơm nhớp dính từ ngày ấy…

Bến đò làng tôi gọi là bến Mom. Bến Mom giống trăm nghìn bến đò trên sông nước Việt. Tại sao tôi cứ phải tụng ca con sông quê tôi chứ?...