Từ Chiếu dời đô đến Ngự chế bi ký

Nguyễn Khôi 17/01/2010 00:00

Về văn nghiệp của Đức Thái Tổ Lý Công Uẩn, xưa nay tưởng chỉ có Chiếu dời đô (1010). Gần đây, nhà Hán học Nguyễn Tiến Đoàn ở Thái Bình đã phát hiện trong gia phả họ Bùi ở Vũ Tiên, TP Thái Bình một bài văn bia của Lý Thái Tổ viết về danh tướng Bùi Quang Dũng, một tướng tài của Đinh Tiên Hoàng.

04-Tu-chieu-1710-300.jpg

Từ Chiếu dời đô...

Sử sách đã chép: cuối năm 1009, Triều Tiền Lê suy yếu, được các triều thần, quân đội và giới Phật giáo ủng hộ đã suy tôn Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập ra vương triều Lý (1009 – 1225). Đó là ngày Quý Sửu mồng 2 tháng 11 năm Kỷ Dậu (21.11.1009).

Rằm tháng 3 năm Canh Tuất (1010) tại kinh đô Hoa Lư, triều đình Đại Cồ Việt chính thức làm lễ đăng quang. Bầy tôi dâng tôn hiệu là “Phụng thiên chi lý ứng vận tự tại thánh minh Long hiện duệ văn anh vũ sùng nhân quảng hiếu thiên hạ thái bình khâm minh quang trạch chương minh vạn bang hiển ứng phù cảm uy chấn phiên man duệ mưu thần trợ thánh trị tác thiên đạo chính hoàng đế” (50 chữ), đặt niên hiệu là Thuận Thiên (thuận theo ý trời) – Nhà vua ở tuổi 35.

Sau khi lên ngôi, năm 1010 vua Lý Thái Tổ đưa ra một quyết đinh vô cùng quan trọng là dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La (Hà Nội) và đổi tên là thành Thăng Long. Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: Canh Tuất, Thuận Thiên năm thứ nhất (1010), mùa xuân, tháng hai... Vua thấy thành Hoa Lư ẩm thấp, chật hẹp, không đủ chỗ ở của Đế Vương, muốn dời đi nơi khác, tự tay viết chiếu dời đô (thiên đô chiếu). Bầy tôi bèn nói: “Bệ hạ vì thiên hạ lập kế lâu dài, trên cho nghiệp Đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi thế ai dám không theo”. Vua cả mừng. Mùa thu, tháng 7, Vua và quần thần từ thành Hoa Lư dời đô ra kinh phủ ở Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long.

Thiên đô chiếu (Chiếu dời đô) là một bài văn gồm 214 chữ Hán (linh ứng với 214 năm cầm quyền của “Lý bát đế”. Đây là một bản hùng văn, mở đầu cho thể văn chính luận của nước Đại Việt ta, với ý nghĩa và tác dụng đặc biệt của nó. Tuy là Hoàng đế, nhưng những việc đại sự đã không “độc tài” dùng ý chí (theo ý riêng mình). Việc dời đô xưa nay không phải là vệc tùy tiện, nó phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, hợp với “ý dân” và cả “mệnh trời” - Kinh đô Hoa Lư trước sau không đáp ứng được yêu cầu cơ bản này. Tiếp đó, Đức Lý Thái Tổ chỉ rõ vị trí ưu việt của kinh đô mới, với những ưu thế thiên thời, địa lợi, nhân hòa là “thắng địa” muôn đời cho con cháu, là “nơi hội tụ của 4 phương đất nước”, nơi “tượng trưng của muôn đời đế vương”.

Qua Thiên đô chiếu chứng tỏ Đức Lý Thái Tổ là nhà lãnh đạo quốc gia có tầm nhìn xa trông rộng về vận mệnh triều đại do mình khởi đầu, biết đón trước xu thế phát triển của đất nước và lịch sử (không để lỡ bước, mất thời cơ như một số triều đại sau này, làm cho đất nước tụt hậu, chìm đắm trong các cuộc đánh nhau, nghèo nàn lạc hậu). Lịch sử Việt Nam ta, có lẽ sau Chiếu dời đô là Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi và Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh... được coi như những lời truyền ngôn linh diệu, báo hiệu thời kỳ đất nước lắm anh hùng.

... đến Ngự chế bi ký

Về văn nghiệp của Đức Thái Tổ Lý Công Uẩn, xưa nay tưởng chỉ có Thiên đô chiếu (1010). Gần đây, những năm cuối thế kỷ XX, nhà Hán học Nguyễn Tiến Đoàn (sinh năm 1932) ở Thái Bình đã phát hiện trong gia phả họ Bùi ở Vũ Tiên, TP Thái Bình một bài văn bia của Lý Thái Tổ viết về danh tướng Bùi Quang Dũng, một tướng tài của Đinh Tiên Hoàng, đã có công lớn trong việc dẹp yên 12 sứ quân và giữ yên vùng bờ biển Sơn Nam hạ; sau khi về dưỡng lão ở quê một thời gian thì ông qua đời - đó là năm Thuận Thiên thứ 9 (1018) ngày 15 tháng 6, thọ 97 tuổi. Được tin ông mất, Đức Lý Thái Tổ vô cùng thương xót, cho quan Bộ Lễ về làng thăng tước cho Thượng Tướng Bùi Quang Dũng là “Trinh Quốc Công” và tổ chức lễ an táng ông ở bản ấp Hàm Châu.

Tháng 8 năm ấy (1018), vua Lý tự tay ngự đề văn bia sử trang Ngự chế bi ký về thái tổ họ Bùi sai khắc nên đá phiến cho đem về từ đường Bùi tộc để thờ. Nghìn năm bia đá không còn. Đây chỉ là một văn bản chữ Hán chép tay truyền lại trong gia phả Bùi tộc... độ tin cậy tới đâu còn chờ sự xem xét của các nhà khảo cứu. Xin giới thiệu phần dịch nghĩa của Ts MAI HỒNG - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng và Phả học Việt Nam.

Bài Ngự chế bia ký về công tích vị Thái Tổ họ Bùi của Hoàng Đế Thái Tổ Triều Lý

Trẫm cho rằng công cuộc mở nền dựng nước dù chỉ là chủ trương của bậc nhân quân, song việc dẹp loạn bình nhung phần lớn trông cậy vào sự nỗ lực của các tướng soái tài ba. Từ xưa đến nay đều như thế. Đó là lý và cũng là thế vậy.

Tuy nhiên ở vào thời thái bình thịnh trị, bổn phận làm người bề tôi tốt thì dễ... Nhưng nếu ở vào cái thế cục bế tắc điên dảo, mà làm kẻ trung thần mới khó. Huống chi ở vào tình thế khó khăn mà tìm được trung thần lại càng khó. Tìm được bậc trung thần mà người đó lại biết bảo toàn sinh mệnh mình lại càng khó hơn nhiều.


Tỷ như chuyện vị quan: Đặc tiến Khai quốc Thiên sách Thượng tướng, Minh Triết phu tử, Trinh Quốc công Bùi Quang Dũng triều Đinh thuở trước.

Mỗ (*) vốn thuộc dòng giống Tiên Rồng đất Việt, là nòi hổ tướng trời Nam, là khí thiêng của đất trời hun đúc, bẩm thụ tính tinh anh của núi sông. Văn tài võ lược siêu quần, uy nghi xuất chúng. Thuở nhỏ nổi danh bởi đức tính khiêm cung hiếu đễ, tông tộc ai cũng cho rằng Mỗ ắt sẽ là người phi phàm. Đến tuổi trưởng thành, hiên ngang khảng khái ham đọc sách lạ (kỳ thư), làng xóm biết ngay Mỗ là người có chí lớn. Ban đầu hai sứ quân Ngô Kiều (**) từng triệu mấy lần Mỗ đều lấy cớ là con nhà nông, chỉ biết việc đồng áng mà không tường thế sự, kiên quyết không theo. Khắp châu quận ai cũng nể phục tiết tháo ấy.

Sau về với Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp mười hai sứ quân. Đó là duyên kỳ ngộ phượng đậu cành ngô, rồng mây tế ngộ, cưỡi gió rẽ sóng khúc nào chim ưng dương cánh mà kình ngạc mất tăm.

Oai hổ đánh đông dẹp bắc; mà cáo cầy tan tác dấu chân. Thiên hạ đều ngợi ca là bậc anh hùng hào kiệt. Khi Đinh Tiên Hoàng thống nhất giang sơn một mối, bước lên chín bậc cửu trùng lấy Mỗ từ chức Anh Dực tướng quân sung vào Điện tiền Chỉ huy sứ, kiêm Thiên sự; triều nghi rực rỡ, công huân lẫy lừng. Thế rồi bọn giặc bể ở Kỳ Bố lại khởi loạn, Mỗ lại được sung chức Trấn đông Tiết Độ sứ. Mỗi khi Mỗ tới thì giặc biển liền ta. Trẫm lại cho thăng lên Đặc tiến Khai Quốc Thiên Sách Thượng tướng, tiến tước Tĩnh An hầu. Kế đó ban sách tặng phong cho tiên phụ của Mỗ là Khải Tá hầu, tiên mẫu là Khải Tá hầu Phu nhân.

Chiếu vua ban tăng thêm vẻ sáng phương nêu rõ sự sủng ái của quốc gia là rất mực vậy. Đây chẳng phải bởi con có huân công oanh liệt mà cha mẹ được vẻ vang? Lại bởi vì Mỗ có công lao lớn, nên trẫm ban thái ấp lưu làm nơi ở thuộc đất Hàm Châu. Đó là cái điềm hợp cát của người hiền ở vào đất tốt, thì mệnh trời sẽ được bền lâu mãi mãi. Há chẳng phải người lấy đất để bền chắc móng nền mà chính là đất lấy người để đất nổi danh? Chiến công lẫm liệt, huân danh lẫy lừng của Mỗ như vậy đã hiển hiện ra trước tai mắt mọi người ai ai cũng thấy. Kịp khi Lê Đại Hành cướp ngôi, Đinh Điền Nguyễn Bặc mật đưa thư tới báo, Mỗ biến sắc tức tốc đề binh lên đường, tới nơi thì hai người đều đã tử tiết. Mỗ liệu sức mình đơn độc khó bề chống chọi, bèn lui vào động Trinh Thạch tử thủ, ôm nỗi niềm cô trung, đợi thời mưu sự về sau. Tinh thần trung dũng quả cảm ấy của Mỗ thực đã biểu lộ cái tầm nhìn xa rộng của Mỗ về thế gian này. May thay trẫm được trời rủ lòng thương mến, lấy khoan dung để thay bạo ngược, lặng lẽ thuận tình, hành sự chí công, vỗ về trăm họ. Chiếu thư mời gọi ba lần mà Mỗ vẫn chưa chịu về triều, trẫm rất lấy làm ái mộ đức tính kiên trung ấy lại càng đáng khen cho khí tiết thanh cao của con người ấy. Bấy giờ có giặc lại nổi loạn ở của biển Kỳ Bố rất ngông cuồng tàn bạo, trẫm đã ba phen khiển tướng chinh phạt mà chưa dẹp yên được. Đến khi sai Nguyễn Uy đem quân đi đánh thì vẫn còn nghe câu nói từ miệng giặc: ‘Hễ ông Dũng đến là tự nhiên kinh”. Lúc Nguyễn Uy đến, giặc chẳng màng để tâm, chỉ có điều chúng cần biết viên tướng đem quân tới là ai thôi. Tướng Uy lên tiếng: Khâm sai Chinh Đông Đại tướng Nguyễn Uy. Giặc liền hát câu vè:

“Uy đến chẳng đáng sợ
Dũng đến tự nhiên kinh”

Trên đường lại nghe trẻ chăn trâu hát câu đồng dao:

“Uy mặc Uy chẳng sợ chi
Có ông Dũng đến vậy thì mới kinh”

Trẫm lại biết thêm về uy đức của Mỗ vốn nổi danh ở miền duyên hải (hải quốc) vậy. Trẫm bèn sai Nguyễn Uy thảo thư đưa vào động nói rõ sự thực còn dặn thêm Uy: Hãy tìm lời dụ Mỗ. Mãi tới lúc ấy Mỗ mới chịu nghe lời trẫm về triều. Trẫm vội lấy lễ khách bậc thầy để tiếp đãi với bái hiệu là Minh Triết phu tử. Nhân đó Mỗ liền tiến cử người con trai của mình là Bùi Quang Anh cho Trẫm.Trẫm lấy nguyên chức như ngày trước mà phong tặng: Anh Dực Tướng Quân trấn đông Tiết độ sứ, phái đi trấn thủ miền đất Kỳ Bố (với nhiệm vụ Tổng Thống trấn thủ ba đạo) lại sai đình thần tiễn Mỗ trở lại đất Hàm Châu. Đường về Hàm Châu ngày ấy Mỗ cùng người con trai của mình là Bùi Quang Anh đồng hành. Vừa về đến nơi thì giặc đã tự tới đầu hàng. Thấy rõ uy đức của Mỗ đến như thế, trẫm càng tăng lòng hâm mộ.

Tới nay Mỗ ở tuổi thọ 97 bị đốc bệnh từ tháng trước, trẫm lệnh đình thần chăm lo thuốc thang trị liệu, viết thư ân cần thăm hỏi, lại cũng không quên hỏi han về việc hậu sự. Mỗ có lời đáp rằng; “Trong câu sấm Thập Bát Tử (tức là chữ Lý) xã tắc truyền gia thì thần thích nhất chữ “bát”, lại dặn thêm: “Ngày sau nếu triều đình hữu sự thì trẫm có thể sai khiến sử dụng đứa cháu của Mỗ”. Lời nói ấy cứ âm vang mãi bên tai trẫm; đinh ninh mãi trong tim trẫm! Trẫm nghĩ cử chỉ ấy của Mỗ chính là một tấm gương để cho các tôi thần của trẫm sau này soi chung vậy. Tới ngày 12 tháng 6 đình thần dâng tấu rằng; “Họ trông thấy phương đông nam có ngôi sao rơi, lặn tất”. Qua ngày rằm bỗng có tờ điệp cáo phó tới: “Khai Quốc Thiên Sách Thượng tướng Tĩnh An hầu Minh Triết phu tử Bùi Tướng công triều Đinh ngày trước tạ thế!”. Trẫm bùi ngùi than thở; Trời vừa mới thương họ Lý ta mà sao vội cướp đi một triết nhân như vậy. Nhân đó trong triều giảm bớt một bữa ăn, bớt vui chơi. Trẫm lệnh cho đình thần thay trẫm lo việc tang lễ, sắm cỗ quan đồng quách ngọc; ban gấm vóc mỗi loại ba súc, vàng 50 lượng, bạc 500 lượng, cùng với điếu văn để trợ giúp lễ nghi tang tế.

Trẫm ban thêm chế sách tặng Mỗ là Trinh Quốc công; lại gia phong mỹ tự dựa trên đức độ bình sinh của Mỗ: “Cương nghị, bất khuất, chính trực không a tòng”. Và ban tên thụy: Cương Chính tướng công. Lại truy phong cho tiên khảo (cha) của Mỗ là Khải Tá công, tiên mẫu (mẹ) là Khải Tá công Phu nhân. Để biểu dương tấm lòng của Mỗ và cũng là để bộc bạch tấm lòng chuộng hiền của trẫm vậy.

Ô hô! Mỗ hiếu trung vẹn cả hai đường.

Tiết nghĩa song toàn hai chữ.

Đó quả là điều hiếm thấy, hiếm nghe bậc nhất từ cổ chí kim ở thế gian này. Trẫm mong cho tính danh của Mỗ sẽ bất tử; hơn nữa nó là tấm gương cho các thế hệ bề tôi của trẫm mãi về sau soi vào. Cầu mong trời đất hãy chứng giám cho đức tính trung liệt của Mỗ, giúp cho con cháu nhà họ Bùi này đời đời luôn có anh tài xuất hiện, để giúp đỡ vua nước Nam ta, bảo vệ giữ gìn nước Nam ta, cứu giúp dân chúng nước Nam ta.

Đó chính là điều trông đợi sâu xa nhất của quả nhân vậy.

Ngày 12 tháng 8 nhuận năm Thuận Thiên thứ 9 (1018)

Ngự chế Thái sư Khuông Việt (thần) LÝ PHÁP CHÂN vâng mệnh chép

Thợ khắc đá PHẠM CÔNG THẮNG vâng mệnh khắc bia

Điều đáng lưu ý là đoạn giữa bài văn bia, vua Lý có nhắc lại lời đáp của Thượng Tướng Bùi Quang Dũng; “Trong câu Sấm thập bát tử (tức là chữ Lý) xã tắc truyền gia thì thần thích nhất là chữ “Bát”...

Lối viết (thưa) này rất ăn nhập với các câu Sấm ký tương truyền là của Vạn Hạnh Thiền Sư vào thời điểm Lý Công Uẩn sắp được truyền ngôi. Từ đây (căn cứ vào chỗ này) cho ta hai lý giải: một là, đây đích thực là bài văn của Lý Thái Tổ, được Thái Sư Khuông Việt (Lý Pháp Chân) phụng tả (vâng mệnh chép lại); hai là, nếu là người đời sau thác lời Lý Thái Tổ viết văn bia tuyên dương công trạng Danh tướng Bùi Quang Dũng thì cũng là người có học vấn thâm hậu rất am hiểu sử liệu và văn phong của Lý Thái Tổ cùng các vị Quốc sư Vạn Hạnh và Khuông Việt thời nhà Lý mới lập nghiệp. Ngôn ngữ và giọng điệu bài Ngự chế bi ký có thể xếp tiếp theo bản hùng văn Thiên đô chiếu xứng ngang tầm thời đại “Rồng bay lên”.

______________

(*) Tức chỉ Bùi Quang Dũng mà tác giả bài ký xưng hô.
(**) Hai sứ quân Ngô Kiều: Ngô Xương Xí và Kiều Công Hãn.

Chiếu dời đô

“Ngày xưa, nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua dời Tam đại ấy theo ý riêng tự dời đô xằng bậy đâu.Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giầu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây; đến nỗi thế đại không dài,vận số ngắn ngủi. muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời. Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam- bắc- đông- tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa; dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh, xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?”

Nguyễn Khôi