Chuyện Tả Ao tiên sinh

Nguyễn Khắc Thuần 08/01/2010 00:00

Tiên sinh tên gì không rõ, sinh và mất vào năm nào cũng chẳng hay, chỉ biết tiên sinh quê ở làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh, do vậy, người đời vẫn quen gọi là Tả Ao tiên sinh.

Tiên sinh hành nghề địa lý, tài giỏi đến độ được xã hội coi như thánh, khắp cõi ai ai cũng xưng tụng. Chuyện đời và chuyện nghề của Tả Ao kể cũng khá ly kỳ. Sách Tang thương ngẫu lục chép như sau:

“Tiên sinh mồ côi cha từ nhỏ, mẹ lại bị lòa nên nhà nghèo khó lắm. Thương mẹ, tiên sinh theo một người khách buôn ở phố Phù Thạch về Trung Hoa học nghề chữa mắt. Thầy thuốc hết lòng khen ngợi tiên sinh là người có hiếu, bèn tận tâm dạy dỗ cho. Đến khi tiên sinh học thành nghề, chuẩn bị về nước, thì có một thầy địa lý chính tông, đau mắt đã lâu ngày mà chưa chữa được, đến mời thầy thuốc của tiên sinh chữa cho. Bấy giờ, thầy già yếu không thể đi được nữa, bèn sai tiên sinh đi thay. Thầy địa lý khỏi mắt rồi, thấy tiên sinh mặt mũi khôi ngô, bèn nói:

- Người này có thể dạy được đây.

Nói rồi, đem hết sự học của mình ra truyền dạy cho. Được độ hơn một năm, thầy muốn thử sức học của tiên sinh xem thế nào, bèn lấy cát đắp mô hình sơn thủy, lấy một trăm đồng vùi ở dưới, rồi đưa cho tiên sinh một trăm cái đinh, bảo hãy thử điểm huyệt. Tiên sinh điểm xong, sai gạt cát ra thì thấy đúng được chín mươi chín huyệt, chỉ sai có một mà thôi. Thầy địa lý khen:

- Khá lắm.

Xong, cho tiên sinh về. Lúc chia tay, thầy địa lý dặn:

- Hễ đi qua núi Hồng Lĩnh thì chớ có ngẩng mặt lên trông.

Tiên sinh vâng lời ra về, đến khi đến quê nhà thì người mẹ hãy còn mạnh khỏe, bèn đem phương thuốc học được chữa cho mắt mẹ sáng ra. Sau, chợt có dịp đi qua Hồng Lĩnh, tiên sinh vẫn nhớ lời thầy dặn, nhưng chẳng rõ vì sao, lại trèo lên tận ngọn mà ngắm và tình cờ phát hiện được một huyệt đất rất quý, bèn cười mà nói rằng:

- Hóa ra, thầy dặn ta không được ngẩng trông lên là vì lẽ này.

Xong, tiên sinh liền về đem hài cốt tổ tiên đến táng vào ngôi huyệt ấy. Chẳng bao lâu sau, tiên sinh sinh được một người con trai. Người Minh xem thiên văn, nói rằng:

- Tinh tú chầu hết về phương Nam, vậy là người Nam lấy được nước của họ rồi.

Hoàng Đế nhà Minh xuống chiếu cho các nhà địa lý, căn dặn rằng, hễ ai chỉ huyệt đất cho người Nam hoặc giả là dạy nghề địa lý cho người Nam, thì phải lập tức phá hủy các huyệt đất quý ấy đi, nếu không sẽ bị tru di tam tộc. Chiếu ấy ban đến nơi, thầy địa lý kia nghĩ là chỉ có tiên sinh chứ chẳng ai, bèn sai ngay con mình sang để do thám. Đến nơi, con thầy địa lý hỏi tiên sinh rằng:

- Từ khi về nước đến nay, tiên sinh đã chọn được huyệt quý nào để cải táng hài cốt tổ tiên chưa.

Tiên sinh thực tình kể lại mọi chuyện. Người khách vừa nghe xong, bèn lén đào trộm mả tổ của tiên sinh rồi lại còn lừa bắt đứa con trai của tiên sinh về Trung Hoa. Chẳng bao lâu sau thì người mẹ của tiên sinh qua đời. Tiên sinh định táng ở ngôi huyệt tận ngoài hải đảo. Ngày giờ định đã rõ ràng, nhưng không may, khi đi thì trời nổi sóng gió, cản trở khiến cho không thể đi được, thành ra phải quay về. Tiên sinh than rằng:

- Đó là huyệt miệng rồng, năm trăm năm mới mở một lần, và mỗi lần chỉ mở trong vòng một khắc. Giờ thì đã lỡ rồi, chẳng còn gì nữa, âu cũng là số mệnh của ta vậy.

Từ khi ấy, tiên sinh không còn màng gì đến sản nghiệp nữa mà thường chu du khắp bốn phương thiên hạ, tìm đất chỉ huyệt cho người, khi mất, tiên sinh chỉ có hai người con gái thôi.

Lúc còn ở nhà, tiên sinh đã chọn sẵn một huyệt đất cho mình, nói rằng, đó là kiểu đất hình một con chó đang đuổi một đàn dê, chỉ táng được ba ngày là thành tiên địa. Đến lúc đã về già, sức đã yếu, tiên sinh từ kinh đô hồi hương, có đem theo một người học trò, định dặn bảo mọi việc sau khi tiên sinh qua đời, chẳng ngờ dọc đường, người học trò ấy lại chết. Tiên sinh về đến nhà thì ốm nặng, sai người nhà khiêng đến huyệt đất đã chọn, nhưng đường xa, liệu khó có thể kịp, bèn chỉ cái gò bên đường mà nói:

- Đây là ngôi huyết thực. Cực chẳng đã thì chôn vào đây cũng được.

Tiên sinh xuống cáng, chỉ rõ phương hướng cho người nhà đào huyệt. Sau, quả nhiên được làm phúc thần”.

Lời bàn: Thương mẹ mà quyết chí học nghề làm thuốc để chữa bệnh cho mẹ, ấy là bậc có hiếu. Người như vậy, bảo thầy học không thương làm sao được?

Trước khi được nhận làm học trò, tiên sinh đã là ân nhân của thầy địa lý rồi, thầy dạy dỗ chí tình cũng phải lắm. Song le, quên lời thầy dặn, sau lại còn nói lời không phải với thầy, thì tài cán bao nhiêu cũng khó mà mong được hưởng phúc ấm lâu dài lắm.

Một lời không phải, nói giữa chốn non cao không người, mà suốt cả một đời chuộc lỗi, nào đã hết đâu. Hình như chẳng phải vô tình mà người đời chỉ nhớ tài và nhớ quê của tiên sinh, còn họ tên của tiên sinh thì chẳng còn ai nhớ cả. Những ai đang bị thuật phong thủy mê hoặc thì có lẽ cũng nên suy gẫm chuyện này. Tài thánh được xưng tụng như Tả Ao tiên sinh, rốt cuộc cũng chẳng tìm được huyệt đất cho riêng mình, huống hồ là ba kẻ mới lượm được vài chữ rơi vãi của thiên hạ. Ôi, hòn đất mà biết nói năng!

Nguyễn Khắc Thuần