Hai phụ nữ hiền đức của Cổ Nhuế

ANH CHI 25/10/2009 00:00

Công chúa Túc Trinh và vú nuôi Phạm Thị Độ là những người phụ nữ đã để lại dấu tích lịch sử trên vùng quê văn hiến của Thăng Long, xã Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội…

Hai phụ nữ hiền đức của Cổ Nhuế ảnh 1

Bà chúa khai hoang

Tương truyền, đầu thời Lý, con trai thứ năm của Lý Thái Tổ là Đông Chinh Vương khi đem quân đi đánh giặc Tống dừng chân ở kẻ Noi (tên Nôm của Cổ Nhuế), được dân chúng đón tiếp rất quyến luyến. Về sau, trước khi Vương mất, có dặn chị gái là công chúa Tả Minh Hiến về cấp tiền cho dân kẻ Noi dựng đình làng. Từ đó, dân làng thờ Đông Chinh Vương và phụ thờ công chúa Tả Minh Hiến. Để tạo điều kiện cho làng thờ cúng và cho con cháu Đông Chinh Vương được hưởng thực ấp, vua Lý Thái Tông (anh trai Đông Chinh Vương) đã cắt cho kẻ Noi 1.600 mẫu ruộng và miễn thuế cùng phu phen trong suốt đời Lý, 216 năm. Nhưng dân ít, ruộng nhiều không làm xuể, nên lâu dần có nhiều diện tích đất bỏ hoang hóa.

Đến thời Trần Thánh Tông (1258-1278), vào năm Bính Dần, “tháng 10 đã xuống chiếu cho các vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần chiêu tập những dân phiêu tán không có sản nghiệp làm nô tỳ để khai khẩn ruộng hoang, lập điền trang” (Đại Việt sử ký toàn thư). Khi ấy, con gái thứ tư của vua Trần Thánh Tông là công chúa Trần Thị Túc Trinh đã về vùng đất hoang hóa phía tây kinh thành Thăng Long làm nhà ở. Bà bỏ nhiều tiền bạc để chiêu tập dân nghèo, cấp vốn cho họ làm nhà ở, mua lương thực ăn, mua nông cụ, trâu bò, thóc giống... để họ khai hoang, phục hóa ruộng đất.

Thành công của việc khai hoang làm cho Cổ Nhuế Viên có 400 mẫu ruộng và Yên Nội có 250 mẫu ruộng cùng nhiều vườn tược tốt tươi. Công chúa Túc Trinh không lấy chồng. Sau, bà đi tu, lại cho xây dựng chùa Anh Linh ở thôn Viên và chùa Thánh Quang ở thôn Yên Nội. Khi già, bà tự tay viết bản di chúc, cho thợ khắc vào quả chuông chùa Thánh Quang, đề niên hiệu đời thứ tư nhà Trần (Trần Anh Tông). Di chúc viết: “Mắt dẫu chưa nhắm nhưng phải chia ruộng cho nô tỳ, cho anh em trong dòng họ và cúng vào chùa”. Bà căn dặn: “Nếu trong nô chúng có người không chịu phụng thờ lại tự tiện xâm chiếm đất công. Nếu anh em trong họ ta cậy thế chiếm đoạt ruộng đất thì nô chúng phải cùng nhau tố cáo lên triều đình luận tội”.

Sau khi Bà mất, dân chúng an táng tại gò Đống Trai chỗ đầu thôn Viên giáp với Đông Ngạc. Nhớ ơn Bà, dân 2 làng Cổ Nhuế Viên và Yên Nội lập đền thờ, giỗ ngày mồng 2.8. Trong đền thờ Bà ở thôn Viên còn có bài ca chữ Nôm làm từ thời vua Khải Định(1916-1925), có đoạn: Chúa phụng chiếu khai hoang lập ấp/ Mộ nhân dân chiêu tập thành gia/ Thổ điền quân cấp mỗi nhà/ Đội công ơn chúa biết là đến đâu...

Vú nuôi hiền đức

Ngôi chùa lớn nhất Cổ Nhuế là Sùng Quang tự, tọa lạc ở vị trí đẹp của trung tâm xã ngày nay. Tương truyền, chùa do công chúa Tả Minh Hiến lập cùng lúc xây đình, nhưng gió mưa và bao biến thiên lịch sử khiến chùa bị hư hoại. Đến thời Cảnh Hưng (1740-1786), chùa mới được sửa lại. Người có công lớn nhất trong việc xây lại chùa là bà Phạm Thị Độ. Bà là cháu dâu ông Chu Văn Tình, một quan võ trong triều Lê Thần Tông, nên được tuyển làm vú nuôi quận chúa Trịnh Thị Ngọc Liên, con gái chúa Trịnh Giang (1720-1740). Trong phủ chúa có nhiều vú nuôi và người hầu, nhưng Ngọc Liên chỉ mến một mình bà Độ. Khi quận chúa lớn lên, đi học, bà Độ xin về quê, quận chúa đã xin cha trọng thưởng cho bà Độ. Thể theo nguyện vọng bà Độ, chúa Trịnh Giang cắt 5 mẫu ruộng giữa làng biếu bà và còn tặng nhiều vàng bạc.

Từ thuở nhỏ bà Độ đã hay tới chùa làng, nay thấy chùa đã dột nát, bà xin với làng được bỏ tiền tu sửa chùa. Đến khi dỡ chùa để tu sửa, thấy chùa đã nát quá, nên phải xây lại. Khả năng kinh phí không nhiều, nên ngôi chùa xây lại nhỏ và thấp hơn trước. Các đời sau tu sửa thêm, nhưng cơ bản ngôi chùa còn lại đến nay là do bà Độ xây dựng. Hiện chùa còn lưu giữ 54 pho tượng niên đại Lê - Nguyễn, 11 bia đá và nhiều đồ tế tự... Bà Độ còn cung tiến 5 mẫu ruộng để mở rộng khuôn viên chùa và lập chợ Noi ngay trước cửa chùa. Cho đến lúc đó, xã Cổ Nhuế gồm 4 làng: Hoàng, Trù, Đống, Viên đông đúc dân cư mới có chợ để mua bán, trao đổi hàng hóa. Phiên chợ Noi thu hút cả dân các làng Chèm, Vẽ, Diễn, Cáo, Vòng... đến mua bán; người ở kinh thành ra mua nông sản và các sản phẩm thủ công...

Bà Phạm Thị Độ cũng vận động dân làng xây dựng giếng Ngọc trước chùa. Miệng giếng làm bằng đá, đẽo gọt rất đẹp, ghép lại thành khoanh tròn đường kính hơn 1m. Thân giếng xây cuốn bằng gạch vồ, sâu gần chục mét, nước trong và mát ngọt. Trên bờ giếng dựng tấm bia đá niên hiệu Cảnh Hưng thứ chín, 1748...

Trải qua ngàn năm gây dựng và phát triển, kẻ Noi xưa đã trù phú, Cổ Nhuế nay là một vùng đô thị mới. Đền thờ công chúa Túc Trinh mà dân vẫn gọi là Bà chúa khai hoang đã được tu sửa khang trang. Và, ai có dịp qua chợ Noi, vào thăm chùa Sùng Quang, sẽ thấy có pho tượng một Bà vãi trang trọng trên khán thờ, là tượng bà Phạm Thị Độ. Đó là những phụ nữ đã để lại dấu tích lịch sử trên một vùng quê văn hiến của Thăng Long - Hà Nội.

ANH CHI