Nghị viện Pháp và cải cách ngân sách:
Luật tổ chức về các luật chi tiêu tài chính 2001: Cụ thể và hiệu quả là trọng tâm của quản lý tài chính công

Tú Khôi 23/10/2009 00:00

Trước tình trạng thâm hụt ngân sách nặng nề kéo dài, nhiều cố gắng cải cách cơ cấu chi tiêu công đã được thực hiện, trong đó phải kể đến Luật Tổ chức về chi tiêu tài chính (Loi organique relative aux lois de finances - LOLF). Ra đời ngày 1.8.2001 và được áp dụng từ năm 2005, đạo luật LOLF là lời giải đáp trực tiếp cho những thiếu sót của đạo luật năm 1959 bằng cách hướng những thủ tục ngân sách tập trung vào khía cạnh chính: một là tính hiệu quả của quản lý công, và hai là tính minh bạch về thông tin ngân sách để Nghị viện thiết lập một giám sát chặt chẽ.

05-Cu-the-29609-300.jpg

Thứ nhất, LOLF làm cho chi tiêu ngân sách hợp lý và dễ kiểm soát hơn bằng cách hợp lý kinh phí tài chính vào các nhiệm vụ có thể bao gồm nhiều hoạt động liên bộ (ví dụ chính sách thành phố - politique de la ville). Mặc khác, các chính sách công lớn lại bao hàm nhiều chương trình. Trong các chương trình này, kinh phí tài trợ có thể linh động, nghĩa là người quản lý có phạm vi quyền hành rộng hơn để khi cần thì có thể đưa khoản kinh phí nhàn rỗi từ dự án này sang dự án khác. Tuy nhiên, nguyên tắc linh động cân xứng cũng quy định người quản lý không được phép tăng chi cho các khoản chi tiêu cá nhân.

Thứ hai, LOLF buộc người quản lý nguồn vốn công phải trách nhiệm hơn bằng cách, đặt ra những mục tiêu cụ thể và dựa vào những mục tiêu đó để đánh giá hiệu quả quản lý. Theo luật mới, mỗi chính sách công lớn được cụ thể hóa thành các chương trình, từ đó chia nhỏ thành các hoạt động, mỗi hoạt động gắn với các mục tiêu đo lường. Việc đạt được hay không đạt được những mục tiêu này sẽ được Nghị viện xem xét kiểm tra vào năm ngay sau đó. Do đó, việc định ra danh sách các mục tiêu đã khiến các cuộc tranh luận tại Nghị viện trở nên sôi nổi, nhất là về tính chính đáng của các mục tiêu này. Mặt khác, việc thiết lập các mục tiêu gắn với mỗi hoạt động cũng cho phép Nghị viện kiểm soát tốt hơn việc sử dụng nguồn lực công.

Thứ ba, LOLF giúp củng cố tính minh bạch và tăng cường vai trò của Nghị viện trong chu trình ngân sách. Điều này được đánh dấu bởi điều 50 của LOLF, theo đó, khi trình lên Nghị viện các dự luật tài chính, Chính phủ phải kèm theo một báo cáo về triển vọng kinh tế, xã hội và tài chính. Báo cáo này phải nêu chính xác những giả thuyết mà chính phủ dựa vào đó để hoạch định ngân sách trong 4 năm tới. Điều 52 của LOLF quy định Chính phủ phải trình Nghị viện một báo cáo phác thảo về mức độ trích dẫn bắt buộc cho hai năm tiếp theo. Cuối cùng, điều 48 của LOLF đặt ra thiết chế đối với việc tranh luận về định hướng ngân sách. Các câu hỏi cũng như câu trả lời trong các phiên thảo luận ở Nghị viện từ nay trở đi sẽ bị đóng khung bởi những nguyên tắc chặt chẽ.

Như vậy, Nghị viện là thực thể đầu tiên được hưởng lợi từ việc cải cách luật năm 1959. Nghị viện không chỉ được thông báo chi tiết nhất, mà còn góp phần tích cực vào việc phân bổ các khoản tín dụng bởi điều 40 của LOLF cho phép cơ quan lập pháp này điều chỉnh việc phân bổ nguồn ngân sách.

LOLF cũng dự kiến sửa đổi việc hạch toán các tài sản trong ngân sách, điều này gắn bó chặt chẽ với các tiêu chuẩn mới về  kế toán quốc gia (phù hợp với các quy định của Liên minh châu âu), và các tiêu chuẩn mới về kế toán IAS/IFRS của các doanh nghiệp. Từ nay trở đi tài sản sẽ  bao gồm cả các bất động sản vô hình, chủ yếu liên quan đến các phần mềm quản lý hành chính (cũng như các thiết bị tin học khác). Báo cáo thường niên năm 2006 của cơ quan Tổng kiểm toán về ngân sách năm 2005, một năm trước khi thực hiện LOLF, cho thấy một khó khăn lớn trong việc đánh giá các tài sản của nhà nước, đặc biệt là những bất động sản vô hình chủ yếu liên quan đến các thiết bị tin học. Báo cáo trên cũng đánh giá chi phí cho các thiết bị tin học được định giá quá thấp (170 triệu euro năm 2004 và 168 triệu euro năm 2005), một trong những lĩnh vực có ngân sách chi tiêu nhỏ nhất trong bảng tổng kết chi tiêu hàng năm. Báo cáo khuyến nghị gộp các bất động sản vô hình vào trong bản tổng kết mở để không làm sai lệch hình ảnh sẽ được dùng cho các tài sản vô hình của nhà nước (khuyến nghị 33).

Thông thường, Nghị viện không thông qua các chỉ tiêu con số chi tiết, cụ thể mà chủ yếu thông qua khung pháp lý, các chi tiêu khung có tính định hướng và các thước đo hiệu quả để hỗ trợ hoạt động giám sát, đánh giá kết quả thực hiện của Chính phủ. Ví dụ, theo LOLF, việc quản lý, giám sát, đánh giá kết quả thực thi ngân sách không dựa trên con số cam kết cụ thể mà dựa trên các mục tiêu phát triển dự kiến và các chỉ số đo lường. Đối với Luật chi tiêu ngân sách hàng năm, các mục tiêu này sẽ được ước tính cụ thể hơn dựa trên tình hình kinh tế thực tế và các giả thuyết đối với tình hình trong nước cũng như thế giới trong tương lai. Do đó, các mục tiêu này có thể được điều chỉnh khi các giả thuyết ban đầu có thay đổi. Điều quan trọng là theo Luật chi tiêu ngân sách mới, việc giám sát và đánh giá kết quả sẽ đặt yếu tố hiệu quả làm trọng tâm. Để đánh giá hiệu quả của các chương trình, có 3 trục đo hiệu quả tương ứng với 3 góc nhìn đối với hoạt động công. Thứ nhất là quan điểm của Công dân thể hiện các mục tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội; thứ hai là quan điểm người sử dụng thể hiện mục tiêu chất lượng dịch vụ và sau cùng là quan điểm người đóng thuế thể hiện các mục tiêu hiệu lực quản lý. Để có một chương trình tốt thì cả 3 mục tiêu này đều cần được bảo đảm một cách cân đối. Các chính sách được quản lý tốt nhưng không hiệu quả hay không có tác động thực tế thì cũng không để làm gì. Ngược lại, các chính sách có tác động tích cực nhưng quá tốn kém thì cũng không tốt. Do đó, đối với mỗi chương trình, cần ấn định đồng thời các mục tiêu kinh tế-xã hội, chất lượng dịch vụ và hiệu năng quản lý.

Các nguồn thu ngân sách:

Trong ngân sách phân biệt hai loại thu nhập: thu nhập từ thuế và thu nhập ngoài thuế. Hiện nay, nguồn thu nhập từ thuế chiếm khoảng 90% nguồn thu ngân sách Nhà nước, bao gồm một số loại thuế cơ bản sau:

Thuế tiêu thụ, đặc biệt là thuế giá trị gia tăng, các thuế đặc biệt đối với một số sản phẩm đặc biệt như thuế nội địa đối với các sản phẩm dầu mỏ, thuế đánh vào các sản phẩm như thuốc lá, rượu, thuế đối với máy móc điện tử…

Thuế thu nhập cá nhân

Thuế doanh nghiệp

Thuế tài sản bao gồm thuế đất, thuế đối với những người có thu nhập cao (thuế này đề cao tính tự giác, những người có thu nhập trên 790.000 euro tự nguyện nộp thuế từ 0,55-1,80%), giấy chứng nhận đã đóng thuế ôtô.

Nguồn thu ngoài thuế chủ yếu là thu nhập từ tài sản nhà nước (phần lớn nhất là sự tham gia của các doanh nghiệp, nguồn thu từ các dịch vụ cho thuê các tài sản công), tiền phạt… Trong năm tài khóa 2006, nguồn thu từ tiền phạt lên đến 760 triệu euro, nâng tổng số tiền thu ngoài thuế lên 24,6 tỷ euro.

Các khoản chi ngân sách

Những khoản chi ngân sách chủ yếu trong năm 2006 như sau

Giáo dục quốc gia: 60 tỷ euro

Trả lãi phát sinh từ những khoản nợ công: 40 tỷ euro (các khoản trả nợ trung và dài hạn không được tính vào các khoản chi ngân sách)

Nghiên cứu và giáo dục bậc cao: 20 tỷ

An ninh và nội vụ: 18 tỷ

Lao động: 13,2 tỷ

An sinh: 12,6 tỷ

Giao thông: 9,4 tỷ

Quỳnh Lan

05-Cac-nguon-29609-300.jpg

Tú Khôi