Ảo ảnh
Một năm sau ngày ngân hàng đầu tư lớn thứ tư của Mỹ Lehman Brothers sụp đổ, mở màn cho cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tồi tệ nhất kể từ sau cuộc Đại suy thoái những năm 30 của thế kỷ trước, bức tranh kinh tế thế giới đã xuất hiện những tín hiệu tích cực. Tuy nhiên, những người thận trọng hơn thì cảnh báo rằng, những ánh sáng đó có thể chỉ là ảo ảnh.

Sau những dao động liên tiếp từ quý IV.2008 đến đầu năm 2009, các thị trường chứng khoán lớn trên thế giới đã bắt đầu phục hồi mạnh mẽ trong tháng 3.2009. Kể từ thời điểm đó, chỉ số Standard & Poor’s 500 tại Mỹ đã tăng hơn 50%, chỉ số FTSE 100 của Anh tăng 40%, chỉ số CAC40 của Pháp, DAX của Đức và chỉ số Nikkei 225 của Nhật Bản đều tăng khoảng 45%. Mặc dù thị trường chứng khoán nói chung được coi là phong vũ biểu của nền kinh tế, song chưa rõ sự gia tăng giá cổ phiếu có kéo dài hay không và liệu có thể xem đây là một tín hiệu chắc chắn cho thấy nền kinh tế ốm yếu của thế giới đang phục hồi?
Bên cạnh sự cải thiện của một số chỉ báo kinh tế vĩ mô, các kế hoạch bơm vốn vào thị trường là một nhân tố không thể thiếu góp phần đẩy giá cổ phiếu lên. Sự phục hồi mạnh mẽ của giá cổ phiếu Mỹ trên thực tế bắt nguồn từ khả năng thanh khoản cao chưa từng thấy, chứ không phải do lợi nhuận thực tế của các công ty có tên niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán. Lưu ý rằng sau cuộc khủng hoảng này, chính phủ và ngân hàng trung ương ở các nước phát triển đã phải thường xuyên cắt giảm lãi suất và bơm hàng trăm tỷ USD vào hệ thống tài chính để giúp giảm bớt tình trạng khan hiếm tín dụng. Do đó, nhiều người quan ngại thị trường cổ phiếu lên giá sẽ làm xuất hiện những “bong bóng” mới.
Ngoài giá cổ phiếu tăng, nhiều ngân hàng và công ty tài chính ở Mỹ và châu âu cũng đã thu được lợi nhuận trong nửa đầu năm 2009. Đây là một tín hiệu khác cho thấy khả năng phục hồi của nền kinh tế. JP Morgan Chase & Co. kiếm được 2,7 tỷ USD trong quý II, tăng 600 triệu USD so với ba tháng đầu năm 2009. Ngân hàng châu Mỹ (BoA) thu được lợi nhuận 3,2 triệu USD, Wells Fargo 3,17 triệu USD, trong khi Citibank, bị tác động mạnh mẽ nhất của cuộc khủng hoảng, cũng thu được lợi nhuận kỷ lục là 4,3 tỷ USD trong quý II.2009. Tuy nhiên, lợi nhuận cao đó lại không xuất phát từ tình hình thực tế. Năm ngoái, các công ty tài chính tạm thời từ bỏ các nguyên tắc kế toán điều chỉnh giá chứng khoán theo giá thị trường. Ngoài ra, khi lập báo cáo tài chính quý, các ngân hàng Mỹ có truyền thống tính cả những thua lỗ có khả năng xảy ra trong tương lai gần. Hầu hết, các công ty tài chính đã làm như vậy trong 2 quý cuối năm 2008 và quý I.2009. Do cách tính này, lợi nhuận trong những quý sau thường cao hơn.
Phải kể đến một ảo ảnh nữa, đó là cuộc khủng hoảng kinh tế đã khiến nhiều công ty tài chính bị phá sản, giúp những công ty tồn tại được trong thời kỳ khủng hoảng không phải cạnh tranh nhiều và có thêm cơ hội thu được lợi nhuận. Cộng thêm gói giải cứu của chính phủ, tính đến năm nay, hệ thống tài chính Mỹ đã “tạm thời” ổn định. Nhưng hoạt động khấm khá lên của nhiều ngân hàng trong quý II.2009 chủ yếu là nhờ các khoản cho vay với lãi suất thấp của chính phủ. Và mặc dù một số ngân hàng đã điều chỉnh tập quán kinh doanh sau cuộc khủng hoảng, song chưa thấy có sự thay đổi cơ bản nào trong ngành tài chính.
Những tín hiệu tích cực đã góp phần khôi phục lòng tin của thị trường. Tuy nhiên, ngành tài chính quốc tế không bao giờ được quên bài học cay đắng về nguyên nhân bùng nổ khủng hoảng, đó là những tập quán kinh doanh thiếu đạo đức. Vấn đề này lại thuộc phạm trù con người. Nếu tư duy con người không thay đổi, cải cách không được thực hiện, sự phục hồi hiện nay sẽ mãi chỉ là ảo ảnh, hay tồi tệ hơn, nó sẽ tạo mầm mống cho một cuộc khủng hoảng khác.