Bức tranh thứ mười chín (Phần cuối)
Truyện ngắn của Trần Thùy Mai
Bức tranh thứ mười chín (Phần 1)

Tiếng sênh phách đã vang lên trong phòng tiệc. Trên những chiếc chiếu rộng cạp nhiễu điều, ca nữ ngồi xen với khách – Michel Cương đảo mắt nhìn quanh, nói cho Pierre Poivre biết chức tước của từng người. Ngoài quan Khâm sai, còn có một quan tổng quản tài chính vốn là người Miên với nước da sẫm màu, quan thị vệ Tòng, và hai vị quan khác trông hơi khác thường với dáng người béo múp míp. Michel Cương cho Pierre biết đấy là hai thái giám có thế lực vào bậc nhất trong phủ chúa.
- Thảo nào họ làm ta nghĩ đến những con mèo thiến. Nhưng Thái giám cũng đến kỹ viện làm gì nhỉ?
- Ông lầm rồi. Đa số thái giám đều lấy vợ. Họ chỉ mất khả năng sinh sản, không có nghĩa là mất sự ham muốn. Chỉ có những kỹ nữ già dặn kinh nghiệm nhất mới làm họ thỏa mãn được thôi.
Lần đầu tiên Pierre thấy những thái giám của cung đình phương Đông. Trong khi tất cả các quan khác đều mặc áo sa, chít khăn lụa như những khách giàu có trong dân gian, một trong hai thái giám vẫn mặc nguyên phẩm phục quan chức để đến nơi này. Đủ biết độ uy quyền và bất chấp của ông ta. Nghe nói đó là thái giám thân tín của Võ Vương, còn người kia là thái giám hầu cận bà quý nhân họ Trần, vợ yêu của nhà chúa, mẹ của vị hoàng tử mà quan Khâm sai tàu vụ nuôi dưỡng. Ông ta là người đã bế hoàng tử từ phủ chúa đến dinh thự của ông quan này năm năm về trước.
- Cả một liên minh chặt chẽ thế này mà chưa đủ bảo đảm cho con tàu của ta sao? Pierre hỏi.
- Vẫn còn thiếu một người, một người quan trọng nhất.
- Ông Tả ngoại?
Đúng. Ở Phú Xuân này, ông ấy quyết định mọi việc.
Pierre cố nén một tiếng chửi thề. Hai quan hầu thân cận nhất của hoàng gia, một ông cha nuôi của hoàng tử, đúng ra chừng ấy khuôn mặt phải đủ để bảo đảm sự ủng hộ của vị chủ tể xứ này. Nhưng, như Michel Cương cho biết, ở xứ này vua chúa chỉ ăn chơi, nếu nhà chúa che chở thì không ai dám làm hại, nhưng khi ông Tả ngoại chưa gật đầu thì chẳng có việc gì xong cả, nếu chúa có trách cứ, ông ta cũng không thiếu lý do để xin lỗi và làm vừa lòng chúa. “Chắc chắn ông ấy đến chứ?” Pierre sốt ruột. Tiếng đàn hát vẫn véo von, nàng kỹ nữ bên Pierre rụt rè vuốt ve bàn tay khách, bàn tay đầy lông hoe hoe vàng. Hình như lần đầu nàng tiếp một khách người “Hồng mao” - Cái tên chung mà dân Việt thời ấy dùng để chỉ người phương Tây. Khúc hát vang bên tai Pierre với những âm giai xa lạ, ông hỏi và bật cười khi nghe Michel Cương bảo rằng tên khúc hát này là “Kim tiền” - nghĩa là tiền vàng.
Món ăn dọn ra ê hề trên chiếu, những món ăn xinh xắn có vẻ ngon lành đặt trong những đĩa nhỏ, trông như những món đồ chơi điểm rất nhiều hình hoa tỉa tót công phu. Nhưng Pierre không ngon miệng được lâu: tửu lầu đã đưa ra món ăn sang trọng nhất: những con chó mới sinh với đôi mắt nhắm nghiền, chưng với thuốc bắc và mật ong trong những chiếc thố sứ. Michel Cương biết khách ghê sợ món ăn này, anh ra hiệu cho nàng kỹ nữ đừng sẻ vào bát của Pierre.
“Thế nào ông ấy cũng đến. Nếu ông ấy đến, coi như mọi việc xong”. Quan Khâm sai nhoài người sang nói với Pierre.
Michel dịch đầy đủ câu nói của ông. Anh biết đấy chỉ là một lời trấn an. Không phải bữa tiệc nào quan Ngoại tả cũng đến. Trước khi quyết định đến dự hay không đến một bữa tiệc, ông ta thường đã nắm rõ những thỉnh cầu của người mời. Pierre Poivre muốn công nhận thông thương cho tàu buôn Pháp, muốn bán hàng và mua lại hồ tiêu, đường cát, gạo. Nhiều năm nay liên tục mất mùa, nên triều đình vẫn có lệnh cấm bán gạo và đồ sắt cho thuyền buôn nước ngoài. Sắt thì Pierre không cần, nhưng gạo từ xứ này nếu chở được tới ấn Độ sẽ là một vốn bốn lời. Tất nhiên ông ta biết rõ đó là một món hàng cấm.
Thấy Michel Cương ngồi trầm ngâm, Pierre nhận ra bên anh không có một kỹ nữ nào. “Sao thế, anh bạn trẻ?” “Thưa Ngài, họ quen tính tôi rồi. Tôi là người có Đạo”.
Pierre nhún vai:
- Tôi còn có Đạo trước anh mà. Anh không cần phải bảo hoàng hơn vua như thế, anh bạn trẻ, Đức Jêhôva sẽ tha tội cho chúng ta vào cuối tuần, sau khi ta xưng tội với các Cha Cố.
Michel không nói gì. Chung quanh, rượu đang tràn những chiếc chén sứ, kỹ nữ và thực khách ngả ngớn lả lơi. Tiếng cười ran lên từng cơn. Michel nhận ra sự có mặt của mình phần nào cản trở cuộc vui... Hiểu ý anh, quan Khâm sai bảo: “Thầy thông Cương, phiền thầy ra gặp Tú Nương, xem mụ ta chuẩn bị ra sao”.
Michel đi rồi, Pierre Poivre bế bổng nàng kỹ nữ đặt lên đùi mình. Ông ta duỗi đôi chân dài nãy giờ gò bó co lại trên chiếu. Cảm giác đầu tiên về người đàn bà xứ lạ: cô ta nhẹ bẫng, trên người cô ta cái gì cũng nhỏ nhỏ, trông như búp bê đồ chơi. Người kỹ nữ bắt đầu dạn dĩ lên, nâng ly rượu lên miệng khách. Còn đợi chờ cuộc hội kiến quan trọng nên Pierre chỉ nhấp miệng. Ông cảm thấy buồn cười khi cô ả nhoài người hôn vào má ông, theo cái cách hôn của người châu Á, giống như hít một bông hoa. Ngồi yên trong cơn mưa vuốt ve, ông ta nghĩ tới Michel Cương. Thật kỳ lạ. Một mặt anh ta cố gắng giữ các nguyên tắc của Đức Tin, một mặt lại tận tụy phục vụ những gì trái ngược hẳn với chúng. Và cả đám người này, họ phụ thuộc vào Michel đến mức nếu anh không phải là người thông ngôn duy nhất của kinh thành, anh khó mà sống được đến nay với chừng ấy chứng tích tối tăm trong một tâm hồn thánh thiện.
*
Tú Nương dẫn Michel đến gian phòng kế cận, nơi một mâm tiệc nguyên vẹn bày sẵn chờ quan ngoại tả. Qua dãy hành lang, cả hai bước vào chỗ Hà Hoa đang ngồi.
Trong giờ phút dài như bất tận, cô gái cúi gầm nhìn mặt đất phía dưới phản, trong lòng cô chợt nảy ra một ước muốn mãnh liệt: ước được bước chân xuống đất, được đi lại trên đất. Nhưng cô không dám, vì đó là điều cô bị nghiêm cấm trong nhiều năm rồi. Cứ ngồi nguyên bất động, Hà Hoa tưởng tượng thấy mình đang bước đi, ra khỏi Khán Xuân Lầu, quay về ngôi nhà tranh ngày xưa ở làng quê, lâu lắm rồi cô không được trở lại. Cô thấy mẹ mình tong tả gánh lúa trên đường làng, cô chạy theo sau mẹ, một tay nách em, một tay xách toòng teng cái ấm đất đựng nước chè xanh...
Tú Nương và Michel Cương bước vào, cô gái giật mình sực tỉnh, nhớ lại hoàn cảnh đáng buồn: mụ chủ, gian phòng kín, những bức tranh vây quanh.
- Ông Cương...
Michel ngạc nhiên.
“Ông Cương... Xin ông cứu giúp cháu. Xin ông cứu cháu làm phúc”.
Hà Hoa kêu lên, quên cả đôi mắt đe dọa của Tú Nương.
Michel Cương chịu, không thể nhớ mình đã gặp cô bé này lúc nào. Hà Hoa kêu nài: “Ông không nhớ sao? Cháu là con Tý, cháu của cụ Đồ Ngoạn làng Dương Sơn. Mỗi lần Tết mẹ con cháu vẫn qua gói bánh tét cho ông mệ...”
Michel Cương cũng là người làng Dương Sơn, giờ đây cha mẹ anh vẫn còn ở đó. Anh bối rối: “Tôi biết làm gì bây giờ?”
“Cháu xin ông, ông làm phúc”. Cô bé bắt đầu khóc nức nở.
Chẳng làm gì giúp được cô bé, ngoài cách chuộc thân cho cô. Nhưng Michel Cương không nghĩ đến việc đó, anh đâu có định thu nạp tỳ thiếp. Vả lại, đời nào mụ chủ chịu, nhất là trong lúc này, khi quan Ngoại tả sắp tới. Với Tú Nương và đám người đang lao vào một thương vụ quá hấp dẫn, họ nhất định phải làm ông ta hài lòng với mọi giá. Dù sao anh không thể quay mặt đi ngay, dù sao cô ta cũng là người làng. “Cô gái à, từ từ hãy tính đi. Đêm cũng muộn rồi, tôi chắc là quan Ngoại tả không đến đâu”. Nói rồi anh vội bước ra ngoài, như muốn gạt nhanh hình ảnh cô gái tội nghiệp ra khỏi tâm trí.
Michel Cương quay lại phòng tiệc, lòng nặng trĩu. Anh tự trấn an: “Mình không có lỗi. Lẽ nào mình có thể cứu được tất cả những cô gái bị đem bán trong những đêm hoan lạc ở Khán Xuân Lầu?”
*
Tiếng sênh phách đã ngừng từ lâu trong phòng tiệc, nhường chỗ cho tiếng đùa giỡn lao nhao và hơi rượu nồng tỏa khắp. Một kỹ nữ đang kể một chuyện cười khá tục tĩu, tiếng cười phụ họa ran lên. Pierre Poivre không hiểu chút gì trong mớ âm thanh hỗn độn vây quanh ông. Nhưng có hề gì. Rượu và gái, là những ngôn ngữ không bao giờ cần phiên dịch. Thỉnh thoảng, Pierre nhún vai nhìn sang quan Khâm sai, vẻ sốt ruột. Chẳng nhận được từ quan một tín hiệu gì, ông ta bắt đầu nản, quay sang chú mục nhìn hai vị thái giám. Không thiếu chuyện gì là họ không làm được, Pierre nghĩ. Ông nghĩ tới những đêm dài trong cung cấm, nơi những con người này phải chứng kiến hoan lạc của người khác, sự thèm khát của họ bị đè nén đến mức khi bùng lên trông thật dị dạng.
Thấy Michel Cương trở lại, Pierre nói, liếc về hai ông quan hoạn: “Một sự sa đọa hiếm thấy, phải không?” Michel lặng lẽ một lát, rồi nói, như nói với chính mình: “Tôi thường nghĩ đến một ẩn dụ trong Cựu ước. Đó là câu chuyện về thành Sodome. Thành sụp đổ bởi chất chứa quá nhiều tội lỗi”.
“Ông Ngoại tả thì sao?”
“Khuya rồi. Theo tôi thì ông ta không đến. Có lẽ ông ấy nghĩ, những đòi hỏi của ngài là quá nhiều”.
“Nhưng số tiền và quà tôi bỏ ra cũng không ít, anh có nghĩ thế không?”
“Thưa ngài, tôi chỉ là một người thông ngôn”.
Đôi mắt xanh của người nước ngoài chợt xám lại. Michel Cương nhìn kỹ nét mặt Pierre, đôi lông mày rậm xoăn trên hốc mắt sâu tối. Khi Cương còn nhỏ đã nghe ông nội dạy cách xem tướng, đấy là những nét biểu hiện tính phũ phàng. Ông nội đã mất trước khi những chiếc thuyền Tây dương đến, nên anh không kịp hỏi những điều ấy có đúng cả với diện mạo người Hồng mao hay không?
Thốt nhiên, bên ngoài vang lên một tiếng kêu báo hiệu. Tất cả các quan đứng cả dậy, nhìn ra ngoài cửa. Đằng xa xa trong đêm tối, một đám sáng hiện ra. Michel Cương bước hẳn ra ngoài, cố dõi mắt nhìn xa. Hơn mười ngọn đuốc dẫn đường, thấp thoáng dưới ánh đuốc là đoàn gia nhân áo dấu nẹp xanh, xúm xít quanh chiếc xe tứ mã.
Ngoại Tả quốc phó Trương Phúc Loan, ông ta đang đến.
Thương vụ của Pierre Poivre xem như đã thành công.
Michel Cương vội quay ra, tìm Tú Nương. Lúc cùng mụ bước vào căn phòng, anh suýt hét lên: Hà Hoa đã treo cổ, cái bóng trắng của cô lủng lẳng dưới xà nhà, trong ánh sáng của ngọn đuốc hoa và mùi thơm hồi hương tỏa ra từ chăn gối. Mái tóc đen nhánh xổ ra rũ dọc theo thân người, trông như một nét vẽ kinh dị giữa mười tám bức tranh khoái lạc vây quanh.
Tiếng hét không kịp bay ra từ cổ họng Michel, vì Tú Nương đã vội bịt lấy miệng anh.
Rất nhanh, chỉ vài mươi khắc sau, cái xác còn nóng được cáng ra ngoài. Michel thấy đôi mắt cô gái mở to nhìn trừng trừng vào mặt anh. Đuôi tóc lệch sang bên, kéo lê trên mặt đất.
“Ông Cương, xin ông đừng nói gì làm các quan mất vui nhé!” Bà chủ kỹ viện nói như năn nỉ. Quay về đám gia nhân, bà đanh giọng: “Khoan đã. Đi lối sau. Đừng để ngài nhìn thấy”.
Quan Ngoại tả và đoàn tùy tùng đã tới, sắp tiến vào cửa chính.
“Michel! Michel!” Cương nghe tiếng Pierre Poivre gọi hối hả. “Thầy thông Cương! Thầy đâu rồi?” Tiếng quan Khâm sai. Giờ này là lúc không thể thiếu anh. Họ đang nóng lòng chờ anh trở lại.
Nhưng Michel Cương không trở lại. Tái xanh và đau đớn, anh đi sau chiếc cáng đưa Hà Hoa - bé Tý của làng Dương Sơn - qua bên kia đồi. Họ đi về phía Trường Cởi, cách Dương Xuân hoa lệ không xa, nơi những nấm mộ nằm san sát bên nhau lặng lẽ trong đêm tối.
Michel! Michel! Xa xa tiếng gọi còn đuổi theo.
Michel Cương vẫn lầm lũi, vừa đi vừa đưa tay làm dấu thánh.