Người “giải mã” cồng chiêng

NHẬT HUY 04/08/2009 00:00

Đã gần 5 năm trôi qua kể từ ngày Bùi Trọng Hiền đi đo thang âm và ghi tổng phổ để làm hồ sơ về Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên. Đến nay, Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên đã được công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại và chúng ta đang chuẩn bị cho Festival Cồng chiêng quốc tế lần thứ nhất vào tháng 11 tới. Nhưng tâm trạng của Bùi Trọng Hiền vẫn quyến luyến, vấn vương với mảnh đất Tây Nguyên nên thơ mà hùng vỹ ấy.

Bùi Trọng Hiền, sinh năm 1966, từ nhỏ đã theo học đàn bầu tại Nhạc viện Hà Nội. Lên đại học, được lời khuyên của “sư phụ”, Gs Vũ Nhật Thăng, anh đã chuyển sang học về lý luận âm nhạc rồi ở lại Nhạc viện làm giảng viên từ năm 1990-1996. Từ đó đến nay anh chuyển về Ban Nghiên cứu di sản văn hóa phi vật thể, Viện Văn hóa - Thông tin để có thời gian làm chuyên sâu về âm nhạc dân tộc. Ở môi trường nghiên cứu, anh được thả sức với âm nhạc tài tử, ca trù, hát xẩm mà không bị bó buộc về thời gian. Nghệ nhân hát xẩm Hà Thị Cầu nhận anh làm con nuôi như là cách truyền “ngón nghề” hát xẩm cho gã trai thị thành mê âm nhạc dân tộc.

Tuy nhiên, nói đến Bùi Trọng Hiền, nhiều người nhớ anh bởi những công sức mà anh đã đóng góp cho hồ sơ về Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trình UNESCO. Đối với Hiền, ngày 7.5.2004 là một ngày có nhiều duyên nợ, khi anh rời mảnh đất Hà thành phồn hoa, vào Tây Nguyên hoang dã và đầy nắng gió để nghiên cứu, trước mắt là làm tổng phổ cho nhạc cồng chiêng. Kể từ khi bước chân đến mảnh đất ấy, Hiền biết rằng, anh đã bị vẻ đẹp hoang sơ của con người và thiên nhiên miền cao nguyên hùng vỹ quyến rũ. Một tháng ở Tây Nguyên, Bùi Trọng Hiền được đi đến các buôn  làng ở Lâm Đồng, Đăk Lăk, Gia Lai, Kon Tum, Đăk Nông, khảo sát trên diện rộng cũng như thu thanh để nghiên cứu, đối sánh, đo đạc, ghi chép âm thanh của những nghệ nhân lão làng, tiếng cồng chiêng đã hút hồn anh lúc nào không hay. Càng thu âm, càng nghiên cứu càng vỡ ra nhiều điều về âm nhạc cồng chiêng mà từ trước đến nay chưa ai đề cập và phát hiện.

Tiếp xúc với nhiều dàn chiêng cổ từ giản đơn đến phức tạp, sống trong môi trường diễn xướng của đồng bào các dân tộc M’nông, Êđê, Bana, Mạ, C’ho, Churu, Sêđăng, S’tiêng... anh phát hiện ra rằng, các dàn cồng chiêng của từng tộc người Tây Nguyên đều thuộc loại hàng 5 âm hay 6 âm cơ bản. Nói là cơ bản bởi lẽ trên thực tế, ngoài âm cơ bản, mỗi chiếc cồng chiêng thường có nhiều các âm phụ khác. Không phải lúc nào người ta cũng nghe thấy chúng rõ ràng. Khoảng cách nghe xa hay gần, người nghe đứng ở “khúc giữa”, phía đầu hay cuối... đều nhận được hiệu ứng âm thanh khác nhau. Dàn chiêng đi theo đường thẳng, đi vòng tròn hay hình rắn bò... hiệu ứng đến tai người nghe cũng khác nhau. Đó chính là hiệu ứng âm thanh nổi rất thú vị. Hiền còn giải thích, đại đa số các bài bản đều kết cấu theo mô hình cố định, gọi là những cấu trúc môđun hay cấu kiện đúc sẵn, vì thế mỗi dàn chiêng là một cây đàn lớn mà mỗi người chỉ đảm nhận một nốt, khi biểu diễn, cây đàn cứ trở đi trở lại những nốt đó theo một thứ tự đều đặn mà không ai quên vị trí của mình. Và Hiền phải cực nhọc phân loại vì mỗi tộc hay nhóm tộc người lại thể hiện những thang âm khác nhau, các dàn chiêng cũng có số lượng nhiều ít khác nhau, có khi chỉ vài chiếc, có lúc lên tới 16, 17 chiếc... Mặc dù có máy đo thang âm “xịn” được tặng từ tay con trai của Gs Trần Văn Khê, nhưng để lắng nghe chính xác tuyệt đối, anh phải căn cứ trên dây rung và chủ yếu nghe bằng tai. Gần nửa năm trời, anh mở máy, nghe, ghi chép, đêm, ngày tổng cộng gần 100 cái cồng, chiêng!

Nói về những kỷ niệm của mình đối với đồng bào Tây Nguyên, Bùi Trọng Hiền kể: một lần tôi vào buôn của người Mạ ở Bảo Lộc, Lâm Đồng để thu thanh, tôi ngạc nhiên vì điều khiển dàn chiêng nữ cho tôi thu thanh là một phụ nữ, chị là K’Hang, chị vừa hút thuốc, vừa bế con, vừa “chỉ huy” trông rất “có nghề”. Đến hết giờ, khi tôi chuẩn bị nghỉ trưa, chị chạy đến bên tôi và hỏi: “Cho chị hát mấy bài vào cái máy này được không?”. Tôi mừng quýnh vì sự hồn nhiên đến... tự nhiên của chị.

“Lần khác”, Bùi Trọng Hiền kể tiếp, “làng M’Nông làm lễ đâm trâu, tôi “rình” mãi mới kéo được các nghệ nhân đánh chiêng và lôi họ ra một góc để yêu cầu họ đánh từng cái để tôi thu, lúc đó họ cũng đã khá say. Khi tôi yêu cầu họ đánh tách riêng ra từng nốt và nói tên cái chiêng đấy là gì thì họ nhìn nhau và cười ngặt nghẽo. Sau này tôi mới hiểu, việc mình tãi âm thanh của từng chiếc chiêng là điều đồng bào không bao giờ làm. Họ chơi và ghép tiết tấu luôn mà không tách riêng theo yêu cầu kỹ thuật của mình”...

Gs Trần Văn Khê từng khen: “Nhờ có anh Hiền tôi mới hiểu hết những giá trị của cồng chiêng Tây Nguyên”. Báo giới vẫn thường gọi anh là “người giải mã cồng chiêng”... Còn với Bùi Trọng Hiền, anh chỉ dám tự nhận mình là một nhà nghiên cứu được làm công việc mình trót yêu và trót đam mê.

NHẬT HUY