Hoài Thanh với Thi nhân Việt Nam

Phong Lê 22/07/2009 00:00

Tháng bảy này là chẵn 100 năm năm sinh Hoài Thanh. Qua đời ở tuổi 73, (năm 1982), ông là nhà văn thuộc thế hệ có một sự nghiệp viết đi qua mốc lịch sử tháng 8.1945. Hơn thế, trước 1945, ông còn thuộc số người ít ỏi có sứ mệnh khai mạc nền phê bình văn học Việt Nam hiện đại…

Thơ mới chính là sự khởi đầu cho sự nghiệp phê bình của Hoài Thanh - mối quan tâm có lịch sử dài ngót tám năm, tính từ tiểu luận Thơ mới đến hợp tuyển Thi nhân Việt Nam - khoảng thời gian mà ông cùng với Hoài Chân “đã đọc tất cả một vạn bài thơ, và trong số ấy có non một vạn bài dở”. Ở bài viết đầu tay Thơ mới (Tiểu thuyết thứ Bảy, số 31; 29.12.1934), Hoài Thanh đã nói đến những khởi động quan trọng rồi sẽ phát triển thành một phong trào thơ, một cuộc cách mạng trong thơ, một thời đại của thi ca. Ông đã đứng trên lập trường ủng hộ nó, khẳng định nó và ca ngợi nó, dẫu Thơ mới lúc đó còn đang trên đường hình thành giữa một biển thơ cũ, và cố nhiên số người phản đối nó vẫn đang còn là lực lượng áp đảo. Trong buổi giao thời, giao tranh cũ mới, khi cái mới còn rất mong manh và lẻ loi, phải nói là Hoài Thanh đã làm được việc tiên đoán đầy tài năng và dũng cảm.

Tiếp ngay sau bài Thơ mới là bài Tìm cái đẹp trong tự nhiên là nghệ thuật; Tìm cái đẹp trong nghệ thuật là phê bình (Tiểu thuyết thứ Bảy, số 35; 26.1.1935). Trong sự nghiệp viết của Hoài Thanh, bài này theo tôi có giá trị một tuyên ngôn. Một tuyên ngôn không chỉ phù hợp với sự nghiệp viết của ông trước 1945 mà cũng có sức chi phối sự nghiệp viết của ông sau 1945. Đó là, trong phê bình, gồm phê và bình, ông chỉ bình chứ không phê. “Bình thì còn được. Nhưng phê? Sao lại phê?”(1). Bình có nghĩa là khen. Và khen tức là sự đi tìm và xác định cái hay trong văn chương. Bởi nói như ông, thật là đúng, với văn chương, để được gọi là văn chương, cái hay mới là cái đáng giá, còn cái dở, cái nhảm thì “không tiêu biểu gì hết”(2).

Trước 1945, ở tư cách là người phát hiện và cổ vũ Thơ mới - lãng mạn, và về sau là tác giả Thi nhân Việt Nam, trong sự nghiệp viết của mình, Hoài Thanh còn để lại dấu ấn trong một cuộc tranh luận nổi tiếng mà tôi nghĩ, ông đã bị đẩy vào một phía, khiến ông rồi sẽ chịu “tai tiếng” một thời gian dài. Một cuộc tranh luận buộc ông phải thành nhà lý luận; hơn thế, là chủ tướng cho một chủ thuyết - chủ thuyết “Văn chương là văn chương”, nó là sự triển khai chính cái lý thuyết mà ông đã nêu trong bài viết đầu năm 1935. Cái lý thuyết được chia thành hai vế, một cho nghệ thuật và một cho phê bình. Để gộp lại cho gọn, đó là lý thuyết về cái Đẹp, mục tiêu của nghệ thuật và phê bình nghệ thuật là đi tìm cái Đẹp. Và cố nhiên, theo logic phân tích của phái vị nhân sinh đương thời - đó là cốt lõi của quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật, đi ngược lại lợi ích của Bình dân, cũng là đi ngược với tiến hóa của lịch sử...

Buộc phải là chủ tướng trong một cuộc tranh luận về nghệ thuật; sự đón nhận nồng nhiệt phong trào Thơ mới, và việc tổng kết một cách tuyệt vời về nó trong Thi nhân Việt Nam, đó là những lý do làm nên sự nghiệp phê bình của Hoài Thanh trước 1945; một sự nghiệp vừa khiến ông nổi tiếng, vừa dồn ông vào một tình thế va dập, rồi sẽ không thôi ám ảnh và đi cùng Hoài Thanh trong suốt đời viết của mình. Nghiên cứu chặng đường sau 1945 của Hoài Thanh, ta sẽ có dịp nhìn lại một hành trình có ý nghĩa tiêu biểu cho giới trí thức Việt Nam trong các bước ngoặt và các chuyển động lớn lao của lịch sử.

Điều bất ngờ, nhưng lại dễ dàng cắt nghĩa được, với Hoài Thanh, cũng như với cả một thế hệ các nghệ sỹ đi theo cách mạng sau 1945, đó là sự phủ định rất sớm, và gay gắt phong trào Thơ mới và Thi nhân Việt Nam - bắt đầu từ Nói chuyện thơ kháng chiến (1951), qua các bài viết khá liên tục trong các năm 1960, 1964, 1977, cho đến 1982 - là năm NXB văn học làm Tuyển tập Hoài Thanh. Trong bộ tuyển được thực hiện gấp rút khi nằm trên giường bệnh, Hoài Thanh vẫn nhất quyết không cho đưa vào bài Một thời đại trong thi ca; có nghĩa là không có sự góp mặt của Thi nhân Việt Nam.

Thế nhưng, một bất ngờ đã xảy ra và cái gì đến phải đến. Đó là tâm sự của ông với người con trưởng Từ Sơn, trước khi qua đời: “Cha biết văn chương của cha cũng vầy vậy thôi. Nếu không có cuốn Thi nhân Việt Nam thì không chắc gì người ta đã công nhận cha thực sự là một nhà văn”(3).

Khẳng định lại giá trị Thi nhân Việt Nam vào thời điểm 1982 nghĩa là còn hơn bốn năm nữa mới khởi động công cuộc Đổi mới, và mười năm sau, 1992, Hội thảo khoa học nhân 50 năm Thi nhân Việt Nam đã nhìn nhận lại giá trị một cuốn sách “chịu được thử thách của thời gian”, “một trong những cuốn sách có giá trị thế kỷ”, với tác giả của nó là nhà phê bình có uy tín nhất trong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX.

*
*    *

Hoài Thanh toàn tập, gồm 4 tập, 4.374 trang, NXB Văn học ấn hành năm 1999 cho thấy mối quan tâm chủ yếu của Hoài Thanh trong 50 năm viết của mình là thơ, gồm cả phê bình và tiểu luận về thơ (tôi dùng chữ tiểu luận, chứ không phải lý luận), mượn cách nói của ông đó là Chuyện thơ. Ngoài Thơ mới, đó là thơ cổ điển như Truyện Kiều, Hoa tiên, Chinh phụ ngâm; thơ quần chúng; thơ Hồ Chí Minh; thơ của nhiều tác giả, gồm từ Tố Hữu, Sóng Hồng đến Giang Nam, Thanh Hải, Lê Anh Xuân, Nguyễn Duy, Lưu Quang Vũ... Tất cả đều được Hoài Thanh viết trong một thành tâm và thiết tha đem đến cho người đọc, nếu trước 1945 là cái hay, thì sau 1945 là những gì có ích, là có lợi cho cách mạng - theo quan niệm của ông.

Thế kỷ XX gồm quá nhiều, hơn bất cứ thế kỷ nào trong lịch sử, những sự kiện, biến cố, những đổi thay, nhảy vọt, những bước ngoặt, cách mạng... Chuyển sang thế kỷ XXI, chúng ta đã có một độ lùi cần thiết để có cái nhìn toàn cảnh cả thế kỷ, khi các tên tuổi lớn thời hiện đại lần lượt bước vào tuổi 100 năm - trước đây là Ngô Tất Tố, Hoàng Ngọc Phách, Khương Hữu Dụng, Nguyễn Công Hoan, Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan..., bây giờ là Hoài Thanh, và kể từ năm sau là Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Xuân Diệu... Một trăm năm trong quãng lùi lịch sử, đủ cho ta nhận rõ và định vị được giá trị của các bậc tiền bối, mà không còn bị chi phối bởi các sự kiện lớn hoặc nhỏ, cùng với các áp lực - có thể nói là ghê gớm của thời cuộc như Cách mạng, Chiến tranh, Chiến thắng, Đổi mới, Hội nhập... Bây giờ là thanh thoát cho một cái nhìn xuyên suốt cả thế kỷ, để cho mọi giá trị đúng-sai, lớn-bé, thật-giả đều được phơi bày. Để nói về Hoài Thanh, tôi chỉ muốn chọn một “điểm nhấn”, đó là: tác giả Thi nhân Việt Nam. Qua Thi nhân Việt Nam, cùng với số phận của nó, trong hành trình nghề nghiệp của Hoài Thanh, tôi muốn hiểu đó là một hành trình có ý nghĩa điển hình, với cả hai mặt vinh-nhục, được-mất, cho số lớn những người trí thức chân chính Việt Nam thế kỷ XX.

(1), (2) Nhỏ to; Bạt Thi nhân Việt Nam.
(3) Di bút và Di cảo; NXB Văn học; 1993; tr.200.

Phong Lê