Ria đánh giá tác động của quy phạm pháp luật: Phạm vi của RIA
LTS: Theo quy định mới của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008, tất cả các dự án luật trình QH đều phải kèm theo bản Báo cáo đánh giá tác động của dự án luật (RIA). Tuy nhiên, do thủ tục này quá mới mẻ, nên tại kỳ họp thứ Năm QH Khóa XII lần này, mới chỉ có vài báo cáo RIA được gửi kèm dự luật và cũng chưa đầy đủ, đúng cách, các đại biểu cũng chưa nhắc đến yêu cầu về RIA khi thảo luận. Để cung cấp thêm thông tin, NĐBND xin giới thiệu cùng bạn đọc về kinh nghiệm RIA ở các nước.

RIA là phương pháp đánh giá chi phí, hệ quả, những tác động có thể xảy ra đối với các nhóm trong xã hội, các khu vực, hoặc toàn bộ xã hội và nền kinh tế từ sự thay đổi chính sách hoặc pháp luật, được thực hiện trong qua trình làm luật, sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật hoặc ban hành chính sách mới. Quan trọng nhất là RIA giúp đưa ra nhiều phương án khác nhau, và nghiên cứu, phân tích, đánh giá, so sánh tác động của các giải pháp đó, lựa chọn chính sách, cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền, để có thể lựa chọn được giải pháp tốt nhất. Phương pháp này thiết lập các tiêu chí để đánh giá và so sánh các tác động đó.
Nói chung, ở các nước có RIA, có thể đánh giá vừa tổng thể, toàn diện, vừa mang tính từng phần. Tổng thể và toàn diện nghĩa là đánh giá tác động trên tất cả các mặt, các khía cạnh. Nhiều nơi còn đánh giá không chỉ đối với các phương án chính sách đang được xem xét, mà cả dự thảo văn bản và các chính sách, quy định đang có hiệu lực. Chẳng hạn, Quy chế hoạt động của các bộ bang Palatinate, Liên bang Đức quy định, việc đánh giá tác động của luật và các văn bản điều chỉnh bao gồm các quy trình nhằm: nghiên cứu nhu cầu, tính cấp thiết, và những hàm ý có thể có của các phương án luật và văn bản điều chỉnh khác nhau (đánh giá tương lai); Thẩm định và đánh giá các dự thảo luật và văn bản điều chỉnh hoặc một phần của dự thảo (đánh giá khi soạn thảo); Đánh giá các quy định pháp luật đang có hiệu lực (đánh giá hồi khứ).
Ở nhiều nước khác, RIA cũng có thể được tiến hành ở những công đoạn khác nhau như khi xem xét sự cần thiết ban hành văn bản, xác định các phương án, so sánh tác động của chúng, từ đó xác định phương án tối ưu; Trong quá trình soạn thảo dự thảo phương án đã được lựa chọn để phân tích xem mục đích ban hành có đạt được một cách tối ưu trong dự thảo hay không, các nhóm chịu sự điều chỉnh của văn bản có dễ dàng thực thi, tuân thủ không, mức độ mà văn bản làm giảm hoặc tăng gánh nặng đối với các nhóm chịu điều chỉnh không; Đánh giá tác động thực tế của một văn bản đang có hiệu lực so với các tác động được dự tính để xác định văn bản đó đạt được mục tiêu đề ra không, có cần sửa đổi không...
Liên quan đến phạm vi đánh giá RIA, kinh nghiệm quốc tế là không phải văn bản luật nào cũng phải có RIA. Tuy nhiên, RIA cần được tiến hành đối với tất cả những thay đổi về chính sách, pháp luật có ảnh hưởng tới doanh nghiệp, các nhóm dân cư, các nhóm lợi ích. Nói một cách tổng thể, RIA cần được thực hiện trong các trường hợp khi các phương án về chính sách đang được xem xét có thể sẽ có ảnh hưởng tới một nhóm cụ thể trong xã hội, hoặc tới toàn xã hội. Phải đánh giá tác động của bất kỳ văn bản nào có phạm vi điều chỉnh rộng hoặc có thể gây ra hệ quả đáng kể.
Đánh giá tác động với quy mô từng phần chỉ chủ ý đến tác động một lĩnh vực, hoặc một số nhóm tác động. Các nước chú ý nhiều đến tác động kinh tế, trong đó, tập trung nhiều nhất vào đánh giá tác động đối với doanh nghiệp và môi trường kinh doanh với hai cấp độ: đánh giá phí tuân thủ thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp; đánh giá tác động đối với doanh nghiệp. Kinh nghiệm các nước cho thấy, quy mô của RIA cần tương thích với quy mô của các tác động tiềm năng. Ví dụ, nếu một thay đổi dự kiến có thể chỉ tác động tới một số doanh nghiệp, hoặc nhiều doanh nghiệp ở cấp độ nhỏ, hoặc khi chi phí và lợi ích là nhỏ, khi đó RIA sẽ ở phạm vi nhỏ, đơn giản hơn. Khi tác động của sự thay đổi đó là lớn và đáng kể, cần tiến hành RIA ở mức độ sâu và rộng hơn, với những phương pháp phức tạp hơn. Cách làm này có tính thực tế và tiết kiệm một khoản tiền.