Cân đối ngân sách: Các nguyên tắc của cân đối ngân sách

Nguyễn Lê 07/11/2008 00:00

Theo thông lệ quốc tế, đạt được ngân sách cân đối là điều quan trọng vì thâm hụt ngân sách lớn có thể gây tổn hại cho nền kinh tế trong lâu dài. Hầu hết các lý thuyết về cân đối ngân sách đều cho rằng, việc xây dựng nguyên tắc cân đối ngân sách phải được bắt đầu từ việc xác định vai trò của nhà nước phù hợp với từng bối cảnh cụ thể. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện đại, nhà nước cần phải tổ chức điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, can thiệp hợp lý và đúng cách vào nền kinh tế, khắc phục những khiếm khuyết của cơ chế thị trường, bảo đảm cho nền kinh tế xã hội phát triển bền vững. Theo quan điểm hiện đại, bội chi ngân sách trong một vài tài khóa là điều không thể tránh khỏi, và nó cũng chưa hẳn là do tình trạng yếu kém của nền kinh tế hay do thiếu hiệu quả trong điều hành ngân sách của nhà nước. Tuy nhiên, dẫu chấp nhận bội chi ngân sách theo chu kỳ, hay cố ý gây bội chi thì cũng là để tạo tiền đề nhằm đạt được sự cân bằng ngân sách trong dài hạn. Từ đó, việc phối hợp cân đối giữa các khoản thu, các khoản chi ngân sách để đạt được đầu ra và kết quả tốt nhất là một trong những nguyên tắc quan trọng khi thực hiện cân đối ngân sách.

      Nguyên tắc “vay bù đắp bội chi chỉ nên dành cho chi đầu tư” cũng đã được công nhận rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa rằng, đầu tư công cao sẽ có tính bền vững, vì còn tùy thuộc vào mức độ tác động lan truyền của khoản chi này đến sự phát triển của khu vực tư. Mặt khác, trong chi tiêu công, giữa chi đầu tư và chi thường xuyên có mối quan hệ mật thiết.
      Do đó, chú trọng cho chi đầu tư phát triển cần có sự phối hợp cân đối với chi thường xuyên, linh hoạt trong sự điều phối nguồn lực trong nội bộ các ngành, tránh tình trạng có ngành chi đầu tư phát triển quá cao so với những khoản chi thường xuyên cần thiết, hoặc ngược lại. Bên cạnh đó, cần đánh giá ảnh hưởng của vay nợ bù đắp bội chi ngân sách đối với đầu tư của khu vực tư (thông qua nghiên cứu định lượng).
      Mặt khác, cùng với xu thế trao quyền tự chủ nhiều hơn cho chính quyền địa phương, việc cho phép địa phương vay nợ là điều cần thiết, song để đảm bảo tính minh bạch thì không được xem vay nợ của địa phương là khoản thu trong cân đối ngân sách địa phương. Và để kiểm soát hành vi vay nợ của địa phương, cần ban hành những quy định về vay nợ của địa phương một cách hợp lý, minh bạch với những nội dung cơ bản. Việc khống chế hạn mức vay nợ của địa phương cần dựa trên cơ sở đánh giá hệ số tín nhiệm của từng địa phương trong lĩnh vực tài chính công; Cần xây dựng hệ thống cảnh báo nợ sớm đối với chính quyền địa phương. Hệ thống đó bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp phản ảnh cả rủi ro tài khóa lẫn vị thế tài khóa của chính quyền địa phương; Giảm thiểu và đi đến loại bỏ việc chính quyền địa phương dựa vào các quỹ và các định chế tài chính nhà nước để vay nợ. Thay vào đó, việc vay nợ của chính quyền địa phương cần dựa trên cơ sở phát triển thị trường trái phiếu địa phương và thị trường trái phiếu vùng. Chính nội dung này sẽ buộc chính quyền địa phương phải tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm trong phân bổ và sử dụng vốn vay, và phải chịu sự giám sát chặt chẽ từ công chúng.  Tuy nhiên, vay nợ dựa vào thị trường đòi hỏi một khung pháp lý để giám sát về yêu cầu công khai hóa, ban hành hướng dẫn về việc vay nợ, xử lý và trả nợ, bảo đảm ngăn chặn nguy cơ dịch vụ công bị gián đoạn và các biện pháp để đề phòng động cơ lợi dụng bảo lãnh, cố ý làm liều.

Nguyễn Lê