Sự can thiệp và kiểm soát của Nhà nước trong khủng hoảng tài chính
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu được châm ngòi từ nước Mỹ đã được dư luận mổ xẻ dưới nhiều góc độ. Các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam đã được một số chuyên gia đúc kết, trong đó có bài học nhấn mạnh đến sự kiểm soát và can thiệp của nhà nước để ngăn ngừa các cuộc khủng hoảng trong tương lai trong bối cảnh mà hầu như luận thuyết “bàn tay vô hình” (ý nói để cho thị trường tự điều chỉnh và hoàn thiện, không cần sự can thiệp của nhà nước) đã không còn chỗ đứng.
Tuy nhiên, nếu mổ xẻ kỹ những đề xuất của các chuyên gia này thì thường chỉ thấy một sự kêu gọi chung chung, khá bất cẩn, theo kiểu có trong số 2 đường đi A và B, nếu không đi được đường A thì B đương nhiên là đường đi đúng, cần phải chọn. Áp dụng trong trường hợp này thì có thể nói rằng lập luận của các chuyên gia này là nếu để cho thị trường tài chính tự phát triển thì sẽ dẫn đến khủng hoảng (con đường A), vì thế sự can thiệp và kiểm soát của Chính phủ (con đường B) nhất thiết là cần thiết và sẽ ngăn chặn được khủng hoảng. Nhưng những chuyên gia này đã không nhận ra rằng sự kiểm soát và can thiệp của Chính phủ không phải luôn là thích hợp và sẽ ngăn chặn được đổ vỡ, khủng hoảng.
Trở lại với cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay. Nguyên nhân của khủng hoảng không phải nằm ở sự thiếu kiểm soát và can thiệp của Chính phủ, như nhiều người quan niệm. Nguồn gốc sâu xa của khủng hoảng bắt nguồn từ chính sách tiền tệ nới lỏng của Ngân hàng Trung ương Mỹ từ năm 2001 kèm với chính sách khuyến khích và giúp đỡ dân chúng được sở hữu bất động sản mà không cần phải có tương đối đủ thu nhập. Giá bất động sản tăng nhanh chóng đã lôi cuốn thêm ngày càng nhiều cá nhân và tổ chức tài chính và đầu tư, cả trong và ngoài nước, nhảy vào thị trường bất động sản. Nhiều sản phẩm tài chính phái sinh được phát minh ra, dựa trên tài sản cầm cố là bất động sản. Vòng xoáy trôn ốc được tạo ra trên thị trường này, cho đến lúc thị trường bị vỡ bung khi chính ngân hàng Trung ương Mỹ tăng lãi suất vào năm 2005 kèm theo làn sóng phá sản, vỡ nợ, tịch thu và phát mại bất động sản, mất khả năng thanh toán lan rộng từ các cá nhân đến các tổ chức, từ các tổ chức này sang các tổ chức khác, từ nước này sang nước khác, khu vực này sang khu vực khác.
Như vậy có thể nói rằng, chính chính sách vĩ mô của Chính phủ (trong trường hợp này là Chính phủ Mỹ) mới là khởi nguồn cho cuộc khủng hoảng sau này. Người ta hay buộc tội các tổ chức tài chính và đầu tư của Mỹ đã quá “sáng tạo” khi tạo ra quá nhiều sản phẩm tài chính phái sinh, làm khuyếch đại nhiều lần tổng giá trị thị trường tài chính liên quan đến bất động sản cầm cố, và truyền quả bóng trách nhiệm thanh toán tín dụng đi loanh quanh để rồi mất hút trong một thị trường như một ma trận gồm những quan hệ tín dụng rắc rối và phức tạp không có đường ra. Người ta cũng buộc tội các tổ chức tài chính đã quá tham lam khi dấn thân vào làn sóng chứng khoán hóa, bảo hiểm hóa cả những cái không thể bảo hiểm được, trong khi Chính phủ Mỹ thì đã thờ ơ, khoanh tay đứng nhìn, để họ mặc sức hoành hành. Nhưng cần lưu ý rằng sự “sáng tạo” hay tham lam này không phải là một điều bất hợp pháp nếu chiểu theo các quy chế hoạt động hiện hành, và vì thế Chính phủ có thể kiểm soát hay can thiệp được, thông qua những biện pháp chẳng hạn như cấm đoán hoặc hạn chế.
Điều này tự thân nó đã cho thấy cuộc khủng hoảng lần này rõ ràng không phải bắt nguồn từ bản thân thị trường, sự tự do phát triển của thị trường, hay lòng tham của các tổ chức tài chính. Nó cũng chẳng phải do sự quản lý lỏng lẻo hay thiếu kiểm soát của Chính phủ, vì rõ ràng hệ thống luật định hiện hành của Mỹ liên quan đến các hoạt động tài chính, cũng như sự thực thi các luật định này, có tiếng là hoàn thiện, minh bạch, chặt chẽ, và nghiêm minh.
Nếu có thể chỉ ra thì khả năng không tiên đoán được hậu quả của các chính sách kinh tế vĩ mô của chính Chính phủ nói chung, khả năng phân tích và dự báo được những rủi ro đang diễn ra trên thị trường tài chính nói riêng, mới là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng.
Giả sử Chính phủ Mỹ biết rằng chính sách tiền tệ nới lỏng của họ ở mức độ quá lớn và kéo dài quá mức kèm với chính sách khuyến khích sở hữu nhà cho dân chúng sớm muộn sẽ dẫn đến khủng hoảng thì họ sẽ có những biện pháp can thiệp chính sách, ví dụ như thắt chặt chính sách tiền tệ đúng lúc, đúng mức, và hạn chế ngân hàng cho vay đầu tư bất động sản, không cho phép phát hành và bảo hiểm các chứng khoán phái sinh có nguồn gốc từ bất động sản, hoặc nói “cùn” hơn là họ không tăng lãi suất như đã làm trong năm 2005. Nhưng làm như vậy thì cũng tương đương việc tự họ “chặt chân” họ, phủ định những chính sách và mục tiêu của chính mình, hoặc sẽ vấp phải sự phản đối của các nhóm quyền lợi có ảnh hưởng.
Quan trọng không kém là tại thời điểm bắt đầu thực thi và duy trì các chính sách của mình, không phải chỉ có Chính phủ mà hầu như không một nhân vật nào có thể chỉ ra được những rủi ro và hậu quả như ngày nay (một hai nhân vật dũng cảm đưa ra những dự đoán tiêu cực và hiện đang được ca ngợi như là nhà tiên tri). Trong bối cảnh như vậy, sự thiếu vắng những quy chế kiểm soát và hành động can thiệp của Chính phủ là điều đương nhiên có thể hiểu được và chấp nhận được. Đấy là chưa kể đến việc khi thị trường đang tiến triển bình thường tốt đẹp như trước khi khủng hoảng, việc áp đặt kiểm soát, can thiệp của Chính phủ sẽ bị xem như là điều không thể chấp nhận được, trừ khi Chính phủ đưa ra được căn cứ cho hành động của mình (là điều bất khả thi tại thời điểm đó, với cùng lý do là hầu như không ai có thể đưa ra được những cảnh báo và hậu quả của các chính sách và diễn biến đương thời trên thị trường).
Với nhận thức như vậy, bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam không phải là lời kêu gọi chung chung rằng, Chính phủ cần phải tăng cường kiểm soát và can thiệp vào thị trường. Bên cạnh việc đương nhiên cần làm là cải thiện tính minh bạch và nghiêm minh trong các luật định hiện hành liên quan, Chính phủ cần phải nhận thức được hậu quả tiêu cực của mỗi một chính sách kinh tế vĩ mô đưa ra thực hiện. Điều này có thể làm được dựa trên lý thuyết và kinh nghiệm, nhưng cái khó là xác định được đúng thời điểm để điều chỉnh hay can thiệp và liều lượng thích hợp. Ví dụ, từ kinh nghiệm của Mỹ và các nước khác, ta biết rằng nếu tín dụng từ hệ thống ngân hàng đổ quá nhiều vào thị trường bất động sản thì có khả năng sẽ xảy ra khủng hoảng tín dụng nếu các điều kiện trên thị trường đảo ngược. Nhưng hiểu như vậy không có nghĩa là Chính phủ phải ngay lập tức yêu cầu ngân hàng hạn chế hoặc không được cho vay đầu tư bất động sản, hoặc Ngân hàng Nhà nước phải ngay lập tức thắt chặt chính sách tiền tệ, hạn chế cơn sốt bất động sản. Sự khéo léo lựa chọn thời điểm, mức độ điều chỉnh và can thiệp là điều then chốt, nhưng không phải là điều luôn có thể học được hay phân tích được.