Thi hào tinh thông hội họa
Trong lịch sử văn học nghệ thuật Trung Quốc có một số tài năng xuất sắc cả về văn chương và hội họa. Họ đã đem tố chất văn chương đặc biệt bổ sung cho tài năng hội họa độc đáo và ngược lại, lấy cái thiên tư mỹ thuật bản thân tu dưỡng được làm phong phú thêm văn chương. Một trong những tài năng trác việt như vậy là Vương Duy, nghệ sỹ lớn thời Thịnh Đường.

Thi hào tinh thông hội họa
Vương Duy (701- 761) tự Ma Cật, tổ tiên người đất Kỳ, Thái Nguyên, nay thuộc huyện Kỳ, Sơn Tây, Trung Quốc. Thân phụ của Vương Duy mất sớm. Thân mẫu là tín đồ Phật giáo sống rất tận tụy, đã truyền cho Vương Duy một tấm lòng nhân hậu, bác ái. Từ nhỏ Vương Duy đã tỏ ra thông minh đặc biệt, tinh thông văn chương và thấu hiểu âm nhạc, lại vẽ rất tài. Năm 19 tuổi, ông thi đỗ Giải nguyên, năm 21 tuổi đỗ Tiến sỹ, rồi được bổ chức Thái Nhạc thừa. Và, sức sáng tạo của Vương Duy bừng dậy dồi dào, nhanh chóng được người đời coi là thi nhân tiêu biểu đồng thời là họa sỹ kiệt xuất thời Thịnh Đường. Như Tô Đông Pha sau này nhận định: “Đọc thơ Ma Cật thấy trong thơ có họa. Xem tranh Ma Cật thấy trong họa có thơ”.
Thơ Vương Duy đã được dịch ra rất nhiều ngôn ngữ trên thế giới, ở đâu cũng được bạn đọc yêu mến. Tác phẩm chính của ông là Vương Hữu thừa tập gồm 28 quyển với gần 500 bài thơ. Vương Duy là một trong số ít các nhà thơ lớn nhất của thời Đường - đỉnh cao của thơ ca cổ điển Trung Quốc, như hậu thế đã tôn vinh: Lý Bạch được coi là Thi Tiên, Đỗ Phủ được coi là Thi Thánh, còn Vương Duy được coi là Thi Phật. Trong hội họa, Vương Duy cũng sớm đạt tới đỉnh cao. Theo sách Tuyên Hòa họa phả thì, vua Tống Huy Tông đã cho triều thần thu tập lưu trữ được tới 126 bức họa của Vương Duy. Ngay thời Đường, người đời đã đánh giá rất cao nghệ thuật hội họa của Vương Duy và theo thời gian, người ta càng thấy thêm những giá trị lớn trong tranh của ông. Đến thời Bắc Tống (thế kỷ XI-XII), người ta coi những bức tranh của Vương Duy là trân bảo!
Ngay từ thời còn trẻ, phẩm chất tinh sâu đặc biệt về nghệ thuật của Vương Duy đã được người đời kính phục. Một lần, ông đến Trường An, làm khách của Dữu Kính Hưu. Trên tường nhà chủ nhân có treo bức tranh Án nhạc đồ. Vương Duy nhìn bức tranh, rồi nói với mọi người: “Ban nhạc đang tấu bản Nghê thường y vũ khúc, đến phách đầu tiên của điệp khúc thứ ba”. Mọi người vừa sửng sốt, vừa hoài nghi. Chủ nhà liền cho mời một ban nhạc tới. Và khi các nhạc công tấu đến phách đầu của điệp khúc thứ ba thì động tác cũng như những ngón tay bấm trên các phím đàn rất khớp với tư thế những nhạc công trong bức tranh! Chuyện này cho thấy tác giả bức tranh Án nhạc đồ rất tinh tế, sâu sắc về âm nhạc; còn Vương Duy thì rất giỏi về âm nhạc, lại tinh thông, sâu sắc về hội họa… Vua Đường Hiến Tông là ông vua đầu tiên của Trung Quốc hạ chỉ cho triều thần sưu tầm tất cả các tác phẩm hội họa của Vương Duy, đưa về lưu giữ tại cung đình, coi là bảo vật quốc gia.
Hình ảnh sống động, cảm xúc bay bổng
Vương Duy có một tâm hồn rất bay bổng, phóng túng. Không giống các họa sỹ cổ điển vẽ tranh sơn thủy rất trọng các quy thức, ví dụ tranh bốn mùa thì, Xuân đào, Hạ sen, Thu cúc, Đông tuyết…, Vương Duy có thể vẽ cảnh mùa Đông mà có cả cây chuối! Như bức tranh nổi tiếng Viên an ngọa tuyết đồ của ông, cây chuối rất tươi đẹp trong cảnh tuyết lạnh. Thêm nữa, tranh sơn thủy Vương Duy không dùng màu, chỉ duy nhất có mực đen. Ông không khai thác vẻ diễm lệ của màu sắc, mà dùng sắc độ đậm nhạt làm toát lên khí sắc nùng uất đến mê hồn của núi sông thâm viễn. Qua hội họa của Vương Duy thấy phong vị thôn trang, sông nước. Phong cách hội họa của ông độc đáo. Nét bút hùng kiện lạ thường. Hội họa sơn thủy đen trắng của Vương Duy sau này được phát huy thành trường phái Thủy mặc, một trường phái đặc sắc của hội họa Trung Hoa cổ điển mà người đời ghi nhận Vương Duy là người khai sáng. Kiệt tác Sơn thủy trướng đồ, Vương Duy vẽ tranh bình phong, dường như tinh hoa, trời đất tập trung vào nét bút, khiến người ngồi trong nhà mà thấy được ánh sáng đầy sân, hào quang lấp loáng trên sông nước. Vương Duy mô tả được cả hơi lạnh thấm qua tường khi sương đêm ngưng đọng…
Là một thi sỹ kiệt xuất, Vương Duy luôn kết hợp được những hình ảnh sống động cùng những cảm xúc bay bổng trong thơ và cả trong hội họa. Một bức tranh kiệt tác nữa của ông là Độ thủy La Hán đồ. Các họa sỹ cổ điển khác thường vẽ La Hán là những vị thần tiên bay cưỡi rồng, cưỡi ngư long. Vương Duy thì mô tả La Hán như những con người trong cuộc sống thế tục. Một vị La Hán lội qua sông, đã lên bờ, phơi quần áo ướt trên một tảng đá rồi nằm nghỉ. Một vị La Hán khác, vừa qua được sông, đưa đầu tích trượng nhờ vị La Hán trên bờ kéo dìu lên… Các vị La Hán trong Độ thủy La Hán đồ của Vương Duy là những bậc giác ngộ nhập thế, chịu chung thân phận cát bụi nơi trần thế. Đó chính là tư tưởng Vương Duy thể hiện qua nghệ thuật hội họa. Bức tranh này trở nên bất hủ là do chứa đựng tư tưởng ấy!…
Những bức tranh của Vương Duy đến nay vô cùng quý hiếm. Những bức tranh hiếm hoi còn lại không chỉ được lưu giữ ở Trung Quốc, mà ở nhiều nơi trên thế giới như những giá trị văn hóa - nghệ thuật tinh hoa của nhân loại. Đơn cử, bức nhân họa Phục sinh thụ kinh đồ và bức sơn thủy họa Giang sơn tuyết tể đồ hiện lưu giữ tại Nhật Bản, là những báu vật vô giá.