Nàng công chúa té giếng (Phần một)
Truyện ngắn của Trần Thùy Mai

23/06/2008 00:00

      Quan ngự y Phùng Thất ngần ngừ đặt bút viết thêm vị thuốc cuối cùng. “Phá cố chỉ”. Liệu đơn thuốc này có giúp gì được cho nàng công chúa nhỏ?
      Trước mặt ông, đệ tam phi yên lặng nhìn theo ngọn bút. Ngồi trên chiếc đoản kỷ chạm xà cừ lấp lánh, nàng như đang ngồi trên một bụi gai. 
      Đôi mắt to và đen dịu của nàng vẫn rất đẹp nhưng đầy mệt mỏi. Vẻ đau đớn câm nín này đã ở trên gương mặt nàng từ lâu, lâu lắm rồi.
      Vậy mà trong cung, người ta vẫn bảo trong ba người vợ chính thức của Hoàng đế, đệ tam phi Ngọc Bình là người được sủng ái nhất. Chẳng khó khăn gì mới nhận ra điều đó. Vì nàng trẻ hơn đức Hoàng đế đến hơn ba mươi tuổi, vì nàng đẹp như thế, vì cung Gia ân của nàng luôn luôn được vinh dự đón Ngài đến nghỉ ngơi.
      Nhưng lúc này đây Quan ngự y Phùng Thất đang thấy rõ hơn bao giờ hết nỗi khổ tâm của Ngọc Bình. “Ông có tin lần này thuốc hiệu nghiệm không? Ngọc Ngôn đã uống nhiều thuốc lắm rồi mà bệnh không thấy giảm”.
      Phùng Thất cúi rạp đầu: “Xin lệnh bà tạm bình tâm. Con người có số mệnh”. Ngọc Bình nghe vậy, nhắm mắt như có một cái gai rất dài đâm thấu tim.
      Nàng lảo đảo đứng dậy, đi về cung. Ngọc Ngôn, nàng công chúa lên sáu đang giẫy dụa trong tay hai bà nhũ mẫu và một bầy thị nữ. Tất cả đang xúm vào giữ không cho cô bé xé quần áo trên người. Càng bị giữ, cô càng tức tối, quay qua xé áo bọn thị nữ, làm họ ré lên khiếp sợ, chạy tán loạn.
      Ngọc Bình thấy cảnh tượng nhốn nháo, nàng vẫy tay ra hiệu cho hai nhũ mẫu lui ra, nhưng cả hai người đàn bà hầu như không nghe lời nàng, họ cứ ra sức đè Ngọc Ngôn xuống. Ngọc Bình điên lên, nàng lăn xả vào ôm chầm lấy con. Lúc ấy hai người đàn bà vạm vỡ mới chịu buông. Dường như vòng tay ấm êm của người mẹ dễ chịu hơn hẳn, Ngọc Ngôn bắt đầu dịu lại, cô bé như lả ra, cái đầu bé nhỏ ép sát vào ngực mẹ.
      Hai nhũ mẫu quay đi, nhưng họ không đi đâu xa, họ chỉ lùi lại một chút sau bức mành. Cũng có thể là họ lo lắng rằng công chúa sẽ lên cơn phá phách trở lại, mà cũng có thể vì đối với đệ tam phi họ đã quen chỉ vâng lời chiếu lệ thôi. Ngọc Bình biết hai nhũ mẫu đều là người của hoàng hậu cử đến, họ phục vụ mẹ con nàng nhưng trong lòng họ âm thầm khinh thường nàng. Cả cung điện này khinh thường nàng. Khi Ngọc Ngôn ra đời đủ ba tháng mười ngày, theo lệ trong cung, nàng bồng con đến ra mắt vương hậu. Toàn bộ cung tần đều có mặt trong cung Khôn Thái. Nàng tiến vào, hai tay đưa con gái dâng lên cho vương hậu xem mặt. Tống nguyên phi, vừa được phong hậu nửa tháng trước đó, bồng đứa trẻ lên, rung rung âu yếm. Bỗng Nhị phi họ Nguyễn ngồi cạnh chợt như buột miệng: “Sao trông mặt công chúa giống...”. Câu nói nửa chừng nín bặt. Tống vương hậu lừ mắt, tất cả nín im thin thít. Ngọc Bình ngẩn ngơ không hiểu vì sao cả cung phòng chợt lặng đi ngột ngạt như thế. Sau này, nàng mới hiểu, trong cái lặng lẽ ghê sợ đó, trong óc mỗi người đều vang lên cùng một câu: “Sao đứa con gái này không giống nhà vua, sao mặt nó giống hệt ngụy Toản!”.

*

      Nhà vua cùng với Tiền quân Nguyễn Văn Thành băng qua những công trình đang xây dở. Cung điện Phú Xuân xây dựng từ thời các chúa Nguyễn, được xây thêm nhiều cung phòng dưới triều Tây Sơn Nguyễn Huệ. Những cung phòng ấy làm vua Gia Long không ưng ý, vào thịnh thời của Quang Trung hoàng đế, tiền bạc không thiếu, nhưng triều Tây Sơn mới nổi chưa tạo được cho mình một tầng lớp quý tộc thực sự biết hưởng thụ cái đẹp. Trong mắt Gia Long, ông vua dù sao cũng sinh ra và lớn lên trong đền chúa, những đường nét kệch cỡm nặng chất nông dân trong những cung điện xa xỉ xây thời Tây Sơn thật khó chịu. Đến thời Quang Toản, hơn mười năm chiến tranh làm kiệt quệ ngân khố, những dinh thự vốn đã không đẹp lại bị bỏ mặc không chăm chút bảo trì, nên càng ủ ê thô thiển. Gia Long bảo Nguyễn Văn Thành:
      - Mới xong binh lửa, lẽ ra còn nhiều việc phải lo. Nhưng cung điện không thể không xây lại. Cung điện cũ sẽ làm cho lòng người nhớ lại triều đại của Ngụy Tây, trẫm không cho phép điều đó. Lăng Đan Dương của Ngụy Huệ đã bị tận phá, chỗ chết của y, ta còn không để lại dấu vết, huống hồ chỗ sống.
      Nguyễn Văn Thành nói ngay, không lưỡng lự - Chuyện này, ông đã nói với vua nhiều lần lắm rồi:
      - Tâu bệ hạ, vậy mà vẫn còn một dấu tích sống của Ngụy triều, ngày ngày đêm đêm kề cận bệ hạ đấy thôi.
      Nhà vua cười gượng, biết ông đang nói đến Ngọc Bình. Đây không biết là lần thứ mấy mươi, Nguyễn Văn Thành nằn nì nói đi nói lại về số phận người đàn bà này. “Xin bệ hạ đừng quên, để ngụy hậu kề cận mình rồng là một việc quá liều lĩnh, chẳng những can hệ đến chuyện an nguy mà còn ảnh hưởng đến thanh danh của người nữa”. Đáp lại thái độ căng thẳng của Nguyễn Văn Thành, nhà vua thường chỉ cười xuề xòa, làm như chẳng có gì quan trọng: “Khanh đừng lo, một người đàn bà chân yếu tay mềm làm gì được ta? Chẳng qua là một cọng cỏ thôi mà”. “Nhưng còn thanh danh của bệ hạ? Đến nay hạ thần vẫn còn phải sai quân tướng lùng tìm dư đảng của Ngụy Tây Sơn. Các bộ tướng của thần sẽ nghĩ sao khi thấy ngụy hậu vẫn nhởn nhơ ngay giữa cung đình?” Nghe nhắc đến thanh danh, nhà vua sa sầm vẻ mặt, không còn giữ được vẻ cố tình vô tư nữa. “Tại sao khanh cứ một tiếng ngụy hậu, hai tiếng ngụy hậu? Khanh đừng quên, tam phi vốn là công chúa nhà Lê. Quang Toản trước đây cưới nàng làm hoàng hậu là nhằm mục đích ve vãn đám công thần cũ của triều Lê thôi. Bây giờ trẫm dung nạp nàng, cũng chính vì mục đích ấy”.
      Nghe vua nói, Nguyễn Văn Thành im lặng một lúc, rồi không nhịn được, thốt lên:
      - Tâu bệ hạ, vua Lê Hiển Tông có đến mấy chục con gái, cớ sao bệ hạ nhất định phải lấy một người?
      Vua Gia Long tím mặt lại, ngài nói dõng dạc từng tiếng:
      - Trẫm là vua, cả giang sơn này là của trẫm, tại sao lại không thể định đoạt số phận một người đàn bà?
      Biết không nói được nữa, Tiền quân Thành im lặng, cuộc chuyện trò giữa vua tôi bỗng gián đoạn. Cả hai sải từng bước dài qua những cung điện đang xây dở, chú mục nhìn vào thợ thuyền đang làm việc mà lòng trĩu nặng những ý nghĩ bực bội. Trẫm là vua, mấy tiếng ấy lâu nay vẫn thường chặn họng Tiền quân Thành những lúc ông nói năng sôi nổi quá. Trong lòng Nguyễn Văn Thành dấy lên một nỗi chua chát. Trẫm là vua. Ngày trước ông ta không nói thế. Ngày trước ông ta nói nhún nhường: “Quả nhân đức bạc, may nhờ chư tướng hết lòng phò tá...”

*

      Tả quân Lê Văn Duyệt thì khác, không thường căng thẳng như Tiền quân Thành. Kể về quyền bính ông cũng ngang ngửa với Tiền quân, kể về thời gian theo vua, ông còn phò vua trước. Nhưng ông không bao giờ nói ngang trước mặt vua. Vốn xuất thân là hoạn quan trong Dinh chúa Nguyễn, ông hiểu rõ những trò trái tính trái nết của vua chúa: đấy là một đặc quyền của đế vương, nếu không thì người ta xây bức thành cao ngất vây quanh che khuất Tử Cấm Thành làm gì?
      Vốn là hoạn quan nên Tả quân Duyệt tiện việc ra vào nội cung, thường gặp Nhị phi trong viện Đoan Trang. Trước ba quân, ông là võ quan hét ra lửa, còn với Nhị phi thì ông vẫn là một ông Thái giám già để bà trút bầu tâm sự. Nhị phi theo vua từ lúc mười sáu tuổi, lúc vua đang còn bôn ba cơ hàn, mấy lần sanh xong phải bồng con chạy tránh nạn Tây Sơn lùng bắt. Lúc nằm gai nếm mật chỉ mong cho đến ngày chiến thắng...
      “Cực thịnh thành suy, người xưa dạy thế, quả không sai?”. Nhị phi lẩm bẩm, nhìn Tả quân Duyệt như chờ một lời chia sẻ. Tả quân hôm nay được Nhị phi vời vào để tặng cho ít bánh gai cung nữ vừa làm, nhân dịp ngồi chơi vài ván tổ tôm, rồi câu chuyện lan man, Nhị phi kể chuyện hôm qua gieo quẻ Mai hoa bốc.
      “Ông thấy có đúng không, cực thịnh thành suy. Những năm gian khổ chỉ mong đến ngày này. Tưởng là vinh hoa hạnh phúc, ai ngờ đến khi vui mừng tột bậc thì lại sinh mối lo buồn như thế”.
      Tả quân Duyệt đặt quân bài xuống chiếu, nói khỏa lấp đi:
      - Lệnh bà lo buồn làm gì. Cơ nghiệp nay đã vững vàng trong tay bệ hạ, đó là điềm thịnh quá lớn. Chút chuyện nhỏ nơi phòng khuê sao có thể nói là suy?
      Nói thế chứ Tả quân cũng biết thừa, với ai thì là chuyện nhỏ, chứ với Nhị phi thì là chuyện lớn, lớn vô cùng. Trước nay lòng luyến ái của nhà vua đối với bà thực sâu nặng. Những năm gian nan, Nguyên phi Tống thị vì là vợ cả, phải giữ phận làm dâu, ở lại phụng dưỡng mẹ chồng. Theo sát mình rồng trong những lúc bôn ba chỉ có Nhị phi. Thế rồi đến ngày vinh hoa phú quý thì một người đàn bà khác trẻ hơn, đẹp hơn, dòng dõi sang cả hơn bỗng xuất hiện, chiếm hết bao nhiêu sủng ái.
      “Mà nào phải cao quý gì cho cam, cái phường phản chúa lộn chồng ấy. Nếu biết giữ gìn thể giá thì phải tự vẫn chết theo ngụy chúa mới phải?” Nhị phi nói, nỗi căm tức làm răng bà nghiến lại.
      Tính Nhị phi mạnh mẽ. Không chịu ngậm hờn nuốt tủi trong lòng, có gì tức tối cứ thế mà tuôn ra. Lê Văn Duyệt thì không thể như vậy được, ông biết mình phải giữ mồm giữ miệng. Không muốn kẹt vào những chuyện rắc rối trong nội đình, ông nán đợi xong ván bài rồi tìm cớ rút lui. Làm đại tướng, làm đại thần, ông đâu có thời gian rảnh rỗi, nể Nhị phi lắm ông mới ngồi hết ba ván tứ sắc. Tả quân Duyệt đi rồi, Nhị phi càng thấy ấm ức trong lòng, bà thầm nghĩ: “Ông này hỏng. Bây giờ chỉ biết lo giữ tướng ấn, đức vua phải quấy gì cũng mặc không dám can ngăn”.
      Trong khi đó, Tả quân Duyệt sải những bước dài ra khỏi khu vực nội cung. Ông vừa đi vừa ngẫm nghĩ đến ván cờ quyền lực đang mở ra trước mắt. Hoàng hậu họ Tống đã lớn tuổi, không sinh nở được nữa, con trai là Hoàng thái tử Cảnh mất sớm. Nhưng Cảnh vẫn còn để lại hai con trai, sau này có thể kế thừa ngôi báu. Nhị phi cũng có hai con trai đã trưởng thành. Nhưng Nhị phi không phải là Hoàng hậu, con bà vẫn không thể xem là con đích. Giờ đây bà không phải là vợ cả, lại cũng không còn là vợ yêu. Vua đang sủng ái Ngọc Bình, nàng còn trẻ, có thể sẽ có con trai sau này. Tả quân Duyệt nghĩ thầm: Nhị phi không ăn yên, ngủ yên, đâu phải chỉ vì ghen tuông thói thường của đàn bà. Câu chuyện tâm sự hôm nay, thực chất là một lời đề nghị liên minh lực lượng. Nhưng ông không muốn đặt cược thế lực của mình vào cửa này.
      Tả quân chưa thấy mặt Ngọc Bình, nhưng cũng đoán chắc nàng đẹp lắm. Phải thế nào mới khiến một ông vua mẫu mực luôn nói đến đạo lý quân thần, phu phụ bỗng chốc quên hết những nguyên tắc... Đường vẫn còn dài, Tả quân tự nhủ, không việc gì phải vội. Rảo bước, Lê Văn Duyệt ra khỏi Đại Cung Môn, không biết rằng ngày ấy, giờ ấy ông đã tính sai một ván bài chính trị, cái sai mười lăm năm sau sẽ đưa cả nhà họ Lê đến họa diệt tộc.

      >>Nàng công chúa té giếng (Phần cuối)