Cảm nhận về FDI vào Việt Nam trong thời gian tới

12/04/2008 00:00

Để có thể có cái nhìn rõ nét hơn về triển vọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào Việt Nam trong thời gian tới, điều quan trọng là phải rút ra được những hàm ý gì trong bối cảnh kinh tế vĩ mô hiện nay ở Việt Nam.

      Điều nổi cộm nhất trong nền kinh tế Việt Nam hiện tại là lạm phát có xu hướng ngày càng tăng cao, nhưng đáng nói hơn là những chính sách xử lý đằng sau nó. Một loạt những giải pháp trái chiều nhau, triệt tiêu hiệu quả của nhau đang được thực thi. Đây có lẽ là kết quả của sự dùng dằng giữa 2 mục tiêu ưu tiên: Thúc đẩy tăng trưởng và kiềm chế lạm phát.
      Cùng với việc tăng giá xăng dầu gần đây, những hành vi ứng xử mâu thuẫn nói trên có hàm ý rằng, lạm phát sẽ còn tiếp diễn ở mức cao trong năm nay (và các năm sau đó), mà chủ yếu là do nguyên nhân nội tại, chưa kể đến những diễn biến bất lợi trên thị trường thế giới. Và quả thật, lạm phát trong tháng 3 năm nay, mặc dù được báo cáo một cách gián tiếp có chủ ý dưới dạng gộp vào cả quý I.2008, vẫn ở mức rất cao đáng quan ngại nếu tách riêng ra khỏi chỉ số cho cả quý, hơn 3%, cao hơn cả tháng 2. Vậy mà không hiểu sao một số người lại cho rằng lạm phát bước đầu đã được kiểm soát, dẫn đến chủ trương đòi nới lỏng tín dụng trở lại. 
      Hậu quả trực tiếp của lạm phát tăng cao lên FDI vào Việt Nam tất nhiên là sẽ làm cho chi phí sản xuất, và do đó, giá thành gia tăng. Vì thế, những doanh nghiệp FDI nào có chiến lược sản xuất tại Việt Nam để xuất khẩu sang một thị trường thứ ba sẽ phải chùn bước, hay phải cắt giảm quy mô sản xuất tại Việt Nam vì giá thành sản phẩm đã trở nên kém cạnh tranh so với đối thủ ở các nước khác (trong bối cảnh tỷ giá biến động trong biên độ rất hẹp). Kết cục, có lẽ chỉ có những dự án đầu tư nước ngoài hoặc mở rộng sản xuất để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ngay tại Việt Nam là ít bị ảnh hưởng hơn, hoặc vẫn còn muốn duy trì và mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Như vậy, có thể nói lạm phát tăng cao sẽ làm thay đổi cơ cấu dòng FDI vào Việt Nam theo hướng khá bất lợi cho Việt Nam.
      Một hàm ý nữa có thể rút ra từ triển vọng không mấy sáng sủa của việc kiềm chế lạm phát là rồi đây, sau một vài tháng nữa, khi lạm phát đã thoát ra khỏi tầm kiểm soát và đạt tới một mức cao nguy hiểm nào đó thì chắc chắn chính sách tiền tệ sẽ phải bị thắt chặt ở một mức hà khắc hơn nhiều so với hiện tại, để rồi tình trạng khủng hoảng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế sẽ diễn ra. Khi khủng hoảng thanh khoản diễn ra, nhà đầu tư nước ngoài sẽ lại có thêm một số gạch đầu dòng trong danh sách những bất lợi khi quyết định đầu tư hoặc mở rộng sản xuất tại Việt Nam (chẳng hạn ngay như việc đơn giản là không thể đổi ngoại tệ ra tiền đồng, hoặc phải đổi với tỷ giá bất lợi, để chi tiêu tại chỗ).
      Kết cục, cùng với xu hướng chi phí kinh doanh sản xuất tiếp tục tăng lên do lạm phát và kỳ vọng lạm phát, những rủi ro và bất trắc trong chính sách kinh tế hiện tại sẽ  làm giảm đáng kể tính hấp dẫn của Việt Nam như một địa điểm đầu tư an toàn, chi phí thấp và triển vọng có lợi nhuận hấp dẫn trong con mắt một bộ phận lớn giới đầu tư nước ngoài. Tất nhiên, điều này có nghĩa là luồng vốn FDI đổ vào Việt Nam sẽ bị thu hẹp lại trong thời gian tới.
      Có thể một số người sẽ lấy dẫn chứng con số FDI đăng ký cao kỷ lục trong năm qua và có xu hướng tiếp diễn trong những tháng gần đây để lập luận rằng việc thu hút FDI sẽ không hề hấn gì. Điều đó có thể đúng với con số FDI đăng ký nhưng không thể đúng với con số FDI thực tế giải ngân. Từ lúc nghiên cứu tiềm năng thị trường và môi trường sản xuất kinh doanh đến lúc ra quyết định đầu tư vào Việt Nam là cả một thời gian dài, có khi tính bằng năm, trong khi tình hình kinh tế vĩ mô ở Việt Nam biến động mạnh và liên tục trong thời gian ngắn tính bằng tuần, bằng tháng. Bằng chứng là mới chỉ cách đây có khoảng nửa năm, người ta vẫn cứ coi nhẹ dấu hiệu lạm phát cao và (chủ ý) nhìn nhận sai lầm về nguyên nhân gây lạm phát, để rồi dẫn đến một loạt thay đổi đột ngột về chính sách kinh tế đã trong vòng mấy tháng sau đó cho đến nay khi mọi việc trở nên rõ ràng hơn, không thể giấu diếm hoặc hiểu sai thêm được nữa. Thêm bằng chứng nữa là nhiều doanh nghiệp Nhật đang bắt đầu xem xét lại kế hoạch đầu tư vào Việt Nam, với con mắt quan ngại và thận trọng hơn rất nhiều so với chỉ cách đây trên dưới một năm.
      Chừng nào môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam chưa trở về trạng thái ổn định, minh bạch, và có thể tiên liệu được thì công tác thu hút và giải ngân FDI trong những tháng tới sẽ gặp nhiều khó khăn. Luồng vốn FDI vào Việt Nam bị chững lại, suy giảm, và cơ cấu đầu tư cũng sẽ có những thay đổi lớn theo xu hướng hướng nội, làm cho Việt Nam không còn là một căn cứ sản xuất để xuất khẩu quan trọng trong khu vực nữa. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hiện nay không còn là giải quyết việc lựa chọn mục tiêu nào, tăng trưởng cao hay lạm phát thấp, mà phải bằng mọi giá ổn định kinh tế vĩ mô, trước mắt là đưa lạm phát về mức trung bình trong khu vực (4-5%). Làm như vậy trước mắt có thể có một số hậu quả tiêu cực cho tăng trưởng. Nhưng nhìn xa hơn, làm như vậy cũng có nghĩa là tạo dựng những cơ sở để phục vụ cho tăng trưởng nhanh và bền vững, ít nhất là thông qua kênh FDI. Ngược lại, nếu vẫn còn lấn cấn giữa hai mục tiêu nói trên, và thiên về việc duy trì tăng trưởng cao (thậm chí quyết tâm đạt mức đầy tham vọng ở mức 9% trong năm nay như một số người chủ trương) thì kết cục là cả 2 mục tiêu đều không đạt được, ít nhất cũng vì sự sụt giảm mạnh của khối FDI (vốn có ảnh hưởng ngày càng lớn và thậm chí có tính áp đảo đến tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong xuất khẩu) như phân tích ở trên. Đương nhiên không cần nói thêm rằng phần lớn những yếu tố bất lợi cho luồng vốn FDI cũng chính là những bất lợi cho các doanh nghiệp trong nước. Bởi vậy, giải quyết được những cản trở cho doanh nghiệp FDI cũng chính là tạo điều kiện cho nền kinh tế nội địa phát triển.

Ts Phan Minh Ngọc