Thiền mộng (Phần một)
Lần đầu tiên trở thành đàn bà chị đã khóc. Người đó ôm chị vào lòng vỗ về như một đứa trẻ. Làng chị, có ngôi chùa gọi là chùa Phổ Địa. Ngôi chùa tọa lạc trên bãi đất cao phía tây đường cái. Ở cổng chùa, hai cây đa lớn, chùm rễ sum sê, tán lá rậm rạp, ken dày vào nhau tạo thành không gian tĩnh mịch. Khuôn viên nhà chùa được gói gọn trong bốn bức tường xây bằng gạch cổ. Phía sau chùa, có một chiếc ao, trước kia thả bèo, giờ thả sen.

Ngôi chùa có từ bao giờ người cao tuổi nhất làng cũng không nhớ nổi. Điều đáng nói ngôi chùa còn lưu giữ một cái chuông lớn. Chiếc chuông này được liệt vào dạng có tiếng kêu hiếm gặp. Mỗi lần chùa gióng chuông, vang tới cả những làng bên kia sông. Các cụ trong làng bảo, ngày trước khi đúc chuông, dân làng bỏ vàng vào nên tiếng kêu mới ngân xa như vậy. Để đúc chiếc chuông này, hiệp thợ đã mất bảy ngày bảy đêm ròng rã.
Mẹ là vợ hai của bố. Mặc dù mẹ chỉ có với bố hai cô con gái song ông vẫn không về với người vợ cũ. Có vài lần chị gặp những người anh trai đến tìm bố. Chưa bao giờ họ tỏ ra thân thiện với ba mẹ con chị. Người làng thì bảo bà chị bắt chồng cho con gái.
Trước kia, người trụ trì chùa Phổ Địa là một vị sư có gốc gác trong làng. Nhưng từ khi vị sư già đó qua đời thì chùa đóng cửa. Chỉ dịp lễ lạt hoặc ngày rằm, chùa mới được mở cho dân vào thắp hương. Qua mấy năm, chùa Phổ Địa lại có hai vị sư tìm về, tiếp quản việc hương nhang đèn nến. Điều đáng nói, cả hai nhà sư đều là nữ. Pháp danh sư cụ là Đàm Thuyên, còn sư nữ là Đàm Thảnh. Sự xuất hiện của hai vị sư nữ khiến làng xôn xao. Thì đã đành trong đạo tu hành không phân biệt giới, nhưng với người dân điều này khó chấp nhận. Trong lí lẽ của họ người tu hành nhất thiết phải là đàn ông.
À quên, chưa kể chuyện này. Đó là chùa Phổ Địa rất kén người tu hành. Cái dớp này khiến người dân không khỏi lo lắng mỗi khi chùa có một vị sư mới tìm về. Trước đây cũng có một ông sư tu tại chùa này, ngày ngày tụng kinh gõ mõ, bốc thuốc cứu người. Dân làng mang ơn ông nhiều. Đi đâu ông cũng được người trong làng kính trọng. Có chùm nhãn, nải chuối mọi người cũng đem ra biếu sư. Giàn trầu nhà chùa bị gió quật đổ, mọi người chặt tre bắc lại cho nhà chùa. Nói thế để biết dân làng kính Phật đến mức nào. Bỗng dưng một dạo mọi người thấy cửa chùa đóng nghim nghỉm. Qua cả ngày lễ lạt, cửa chùa cũng chẳng mở cho mọi người tới thắp hương. Rồi một bà đi dâng hương đền Lạc Đạo nghe được chuyện về kể, mọi người mới ngã ngửa ra. Thì ra, ông sư nọ đã trả lại ấn quyết nhà chùa hoàn tục.
Sau chuyện ấy, lại xảy ra chuyện có đôi nam nữ yêu nhau, đêm đêm vào trong vườn chùa tình tự. Cho đến một tối, họ đưa nhau vào nơi linh thiêng làm việc bậy bạ. Rồi họ lấy nhau, sinh con nhưng những đứa con họ đều khác người. Thân thể dỏng dớt, tay chân lều nghều như khỉ. Người ta bảo, họ dám làm việc đó ở nơi linh thiêng nên giờ bị phạt. Sau ngần ấy chuyện, hai vị sư nữ về, mọi người e dè cũng là dễ hiểu.
Sư cụ đã ngoài thất thập. Dáng người nhỏ thó rộng lùng thùng trong chiếc áo nâu, cái đầu gọt trọc. Nhìn sư cụ Đàm Thuyên người ta nghĩ đến một bà lão khắc khổ nhiều hơn một nhà tu hành. Ni cô Đàm Thảnh thì ngược lại. Đó là một cô gái độ mười tám đôi mươi. Dù khoác trên người bộ quần áo nâu sồng song những nét toát ra trên khuôn mặt thì không có chút gì của người thoát tục. Đôi mắt to tròn sâu thăm thẳm như chốn bể đời. Cái miệng không ăn trầu, không tô son nhưng lúc nào cũng đỏ tươi như một vệt máu. Nước da trắng hồng, cái cổ ba ngấn lồ lộ dưới chiếc áo nâu càng tôn thêm vẻ đẹp lạ lùng. Khuôn mặt đó vừa có những nét trần tục vừa mang nét không trần thế. “Một người con gái như thế sao lại gởi thân nơi cửa Phật?”. Mỗi lần nhìn thấy Đàm Thảnh cầm chổi quét lá đa thấp thoáng ở cổng chùa, mọi người lại xì xào bảo nhau: "Chắc cuộc đời có gì uẩn khúc?”. “Mới mười mấy tuổi đầu hẳn bị tình phụ”. Nhưng sau những câu nói đó, sự nuối tiếc lại nghiêng về phía họ. Những người đàn ông chạnh lòng nghĩ đến vợ mình. Những người đàn bà tủi cho nhan sắc của mình. Là một cô gái, chị cũng đã có lần chạnh lòng.
Ở đời, cái gì khắc sâu đều khiến người ta nhớ. Cho dù có chôn vùi nó trong tiềm thức thì một ngày kia nó vẫn sống lại như giấc mơ. Với chị đó là cái đêm ngắn ngủi ấy. Những ngón tay bấu chặt vào hông. Những cú huých. Không gian bốn bề ma mị. Khi người đàn bà không tự nguyện thì người đàn ông sẽ tìm cách chiếm đoạt.
- Lần đầu à? - Người đó hỏi.
Chị gật đầu. Nếu có thể gọi đó là một mối tình.
Mỗi ngày rằm và đầu tháng bà ngoại lại mang hoa quả, thẻ hương ra chùa thắp. Chị gái là người thường được bà cho theo xách làn. Mẹ phát cáu bảo: “Con gái gì mà suốt ngày lân la cửa chùa”. Mẹ còn bảo từ sau cấm chỉ không cho đi. Mẹ ngại ra chùa. Chắc tại bà tiếc việc. Mẹ là người suốt đời không muốn một phút tay chân được nghỉ ngơi. Mẹ chỉ đi ra ngoài khi có việc bắt buộc hoặc đi thăm ai đó ốm đau. Chị cũng có vài lần theo bà và chị gái ra nghe sư giảng kinh. Những lúc làm lễ, chị rất hay nhìn trộm Đàm Thảnh. Ngày xưa nói Thị Mầu lên chùa rồi yêu tiểu Kính Tâm, bây giờ nếu Đàm Thảnh là chú tiểu chắc chị cũng đem lòng yêu như Thị Mầu.
Ra sân chùa thấy Đàm Thảnh đun nước ở bếp, chị ngồi bắt chuyện. Đàm Thảnh cười. Trời ơi! Nụ cười đó không thể là nụ cười nơi cửa Phật được. Nó quyến rũ hơn bất cứ nụ cười nào. Thấy chị ngẩn ra, Đàm Thảnh chắp tay:
- A di đà phật. Thí chủ sao thế?
- Chẳng sao đâu. Chỉ thấy tiếc khi Đàm Thảnh trong màu áo này.
Đàm Thảnh nhặt dưới đất lên một bông hoa đại, nhìn vào đó:
- Tôi không có gia đình. Sư cụ Đàm Thuyên đã nuôi tôi từ nhỏ.
- Chứ không phải vào chùa như người ta nói?
- Nói sao?
- Tình phụ!
Chị biết, Đàm Thảnh còn bỏ ngoài tai bao lời trêu ghẹo của người đời khi thấy cô xuất hiện ở cổng chùa hay có việc đi ra đường. Có lẽ đối với một cô gái bình thường thì đó là niềm kiêu hãnh, nhưng đằng này Đàm Thảnh là ni cô, còn gì bất nhã hơn.
Một công ty nước ngoài chọn làng chị xây dựng nhà máy chế biến hoa quả. Quyết định này đã khiến cuộc sống cả cộng đồng dân cư thay đổi. Kinh tế thị trường thật mạnh mẽ. Nó vươn tới cả những nơi hẻo lánh như làng này. Nhớ lại chục năm trước đây, người dân không bước chân ra khỏi lũy tre làng. Cuộc sống vật chất eo hẹp, những hủ tục, lệ làng như ma chay, cưới hỏi nặng nề khiến nhiều gia cảnh điêu đứng. Làng thay đổi từng ngày. Nhìn lại quả chưa bao giờ dám nghĩ tới. Con người không thể tồn tại nếu mãi giấu mình trong bọc kén. Cũng không thể sống nếu cắt đứt mọi mối liên hệ với bên ngoài. Giờ chỉ với chiếc máy thu hình người ta có thể biết cả thế giới đang diễn biến ra sao, từ chuyện chính trị, khinh tế bạo loạn, khủng bố đến xung đột sắc tộc.
Sự du nhập của cái mới kéo theo những cái cũ hoặc cùng thay đổi hoặc mất đi. Ngẫm lại đời người lúc thăng lúc trầm, mình hôm nay chẳng là mình hôm qua. Và tất nhiên ngày mai mình lại là mình khác. Cuộc sống như dòng nước cứ trôi, con người vướng vào cảnh ngộ nào cũng gồng mình lên được.
Nơi đặt nhà máy là khoảnh đất giáp với chùa. Chỉ mấy ngày những ao chuôm bao năm nay chỉ để nghể nước mọc hoang đã được đổ đầy đất. Ngày trước, khi chưa xây dựng nhà máy, chỉ có một mình, ngôi chùa nằm ở một vị trí cao ráo. Giờ khi nhà máy xây xong và đi vào hoạt động ngôi chùa bị thu hẹp một cách đáng thương.
Chị gái lấy chồng. Lũ con gái tuổi chị cũng lần lượt về nhà chồng. Trong lúc chúng nó co kéo để vun vén cho một mái ấm riêng, chị thi đậu vào trường sư phạm. Sau ba năm học, trở về làm giáo viên âm nhạc ở ngôi trường làng. Tưởng cuộc sống thế là ưu ái với mình, không ngờ những chuyển động biến thiên của cuộc sống bên ngoài vẫn tác động nhiều thế. Đôi lúc tự hỏi rồi đây cái gì đang chờ mình phía trước. Mẹ bảo: “Đối với người đàn bà mái ấm gia đình là quan trọng”. Chị không phủ nhận điều đó. Chị gái cười ngất: “Cái gì mà quan trọng chứ. Thời nay câu nói ấy chưa chắc đúng”. Cái cười của chị khiến thấy ghét. Ông trời vốn không rộng lượng: cho người này cái này lại lấy đi cái khác. Phải chăng cái mà chị gái được ông trời cho lại chẳng đáng giá khiến chị coi rẻ. Chị nhổ tóc sâu cho mẹ, mẹ nói: “Con gái ngoài đôi rồi đấy”. Chị cười mà chẳng biết mình buồn cười vì gì. Chị nhổ tóc sâu cho mẹ, mẹ nói: “Ở làng này con gái ngoài hăm là thấy lo”. Chị vân vê sợi tóc trong tay. Không muốn để trong đầu mà lời mẹ cứ chui vào đáy óc. Chị nhổ tóc sâu cho mẹ, mẹ nói: “Bụng cái Vân nhọn thế là sinh con trai đấy, đứa đầu là gái thế là đủ cả nếp tẻ. Cùng tuổi với nhau mà mày...”. Câu nói bỏ lửng của mẹ khiến chị đánh rơi sợi tóc. Chị nhổ tóc sâu cho mẹ. Tuổi ba mươi đến lúc nào chẳng rõ
Chị gái lấy chồng ở ngay làng. Nhà chồng chị gái giáp ngay chùa. Bà mẹ chồng chị gái hơn mẹ ba tuổi. Bà là người coi việc đi dâng hương ở các cửa chùa là phận sự. Chị gái bảo: “Bà ấy mê tín lắm. Ngay như chuyện hai đứa, bà ấy phải xem xét chán mới ưng thuận. Lúc yêu nhau tao với ông ấy đã mấy lần định chia tay nhưng không biết xem đâu người ta bảo tao là số quý tướng, gia đình có ăn nên làm ra là nhờ tao nên mới cố níu lấy”. Rồi chị nói tiếp: “Ai đời trông cháu, nó khóc lại lôi kinh Phật ra đọc. Trẻ con hiểu thế nào được kinh kệ mà đọc cho nó nghe. Đồng bóng đến mức vậy. Đến lúc thằng bé biết bập bẹ nói thì câu nó nói sõi nhất là: A di đà phật”.
Sau một đêm có thể nhiều thứ sẽ biến mất. Chị đã chứng kiến sau một đêm người đó vĩnh viễn biến mất khỏi cuộc đời chị. Cũng dạng một giấc mơ chăng. Nhưng với chị đó là giấc mơ có thật.
Cái làng nhỏ bé này nom vậy mà cũng nảy sinh lắm chuyện: vợ chồng ly dị, anh em bất hòa tranh giành đất hương hỏa, tệ nạn xã hội, nghiện hút, đĩ điếm. Rồi kiện cáo việc bớt xén tiền đền bù. Nhưng có hai chuyện mà chị nhớ nhất. Chuyện thứ nhất: đột nhiên ni cô Đàm Thảnh đi khỏi chùa. Có tin đồn ni cô bỏ theo một người con trai về xây dựng nhà máy chế biến hoa quả. Sư cụ Đàm Thuyên ngồi chết lặng. Không phải chỉ mình người bất ngờ mà ngay đến dân làng cũng bàng hoàng. Chùa làng giờ chỉ còn sư cụ Đàm Thuyên trụ trì. Câu chuyện về ni cô Đàm Thảnh cũng theo thời gian trôi vào quên lãng. Chuyện thứ hai: đang yên đang lành chị gái đùng đùng đâm đơn ra tòa li dị chồng. Cha mẹ bàng hoàng trước sự việc này. Có hai đứa con gái, đứa sau chưa ai rước đi thì đứa trước đã qua một đời chồng. Mẹ bảo chị gái:
- Dù gì thằng con mày cũng là dòng dõi nhà người ta. Khi lớn nó lại theo về bên ấy thôi. Công của mày cũng chỉ là công cốc.
Chị gái cười xòa:
- Mẹ khỏi phải lo. Có phải dòng giống của họ đâu mà nhận.
Mẹ tái mặt. Chị không mấy ngạc nhiên vì điều đó. Cha thằng bé chắc là một người nào đó trong đám công nhân. Lúc nhà máy đang thi công, làng nhiều quán bia, quán cà phê mọc lên. Ngồi sau những quầy hàng là các cô gái trát phấn lên mặt còn vụng về. Sau khi cuộc sống trở lại bình thường, làng có nhiều cô gái nuôi con một mình.
Thêm nhiều người đàn ông đến với chị nhưng rốt cuộc cũng chẳng đâu vào đâu. Chị xót xa nhận thấy trong số những người đó trên mái đầu đã pha hai màu tóc.
Truyện ngắn của Đinh Ngọc Hùng