Nhật Bản nỗ lực cải cách giáo dục

07/07/2007 00:00

Nhật Bản là một trong những quốc gia có hệ thống giáo dục lâu đời và ổn định nhất Châu Á. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển KT-XH và quá trình hội nhập quốc tế, hệ thống giáo dục Nhật Bản ngày càng trở nên lỗi thời. Vào đầu năm 2007, Hội đồng Cải cách Giáo dục (ERC) – một cơ quan thuộc Chính phủ Nhật Bản - đã trình báo cáo lên Thủ tướng, trong đó chỉ ra các vấn đề bất cập trong hệ thống giáo dục hiện hành. Đây chính là lý do vì sao trong bài phát biểu đầu tiên tại Quốc hội vào ngày 29.9.2006, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã khẳng định cải cách giáo dục là một trong những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ.

      Áp lực cải cách ngày càng tăng
      Hệ thống giáo dục hiện hành của Nhật Bản được thiết lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai, lấy hệ thống giáo dục của Mỹ làm kiểu mẫu. Nó bao gồm 9 năm giáo dục bắt buộc (6 năm tiểu học và 3 năm trung học cơ sở), tiếp theo đó là 3 năm trung học phổ thông không bắt buộc và 4 năm đại học. Tuổi bắt đầu đi học ở Nhật Bản là 6 tuổi và tuổi tốt nghiệp trung học cơ sở là 15 tuổi. Năm học ở Nhật Bản thường bắt đầu vào tháng 4 hàng năm và kết thúc vào tháng 3 năm sau.
      Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2, Nhật Bản đã tiến hành các cuộc cải cách nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Các cuộc cải cách này đã góp phần giúp tăng tỷ lệ học sinh trung học cơ sở tiếp tục học lên trung học phổ thông và bậc đại học sau khi đã kết thúc chương trình giáo dục bắt buộc. Tỷ lệ học sinh trung học cơ sở theo học ở bậc trung học phổ thông ở Nhật Bản đạt 97,7% vào năm 2006. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông tiếp tục theo học ở các trường dạy nghề là 25,5%, trong khi tỷ lệ học sinh trung học phổ thông không tiếp tục học cao hơn chỉ là 17,8%.
      Tuy nhiên, cùng với quá trình hội nhập, hệ thống giáo dục của Nhật Bản ngày càng bộc lộ nhiều điểm yếu, trong đó nghiêm trọng nhất có lẽ là vấn đề thi cử. Hiện nay, các doanh nghiệp Nhật Bản thường có khuynh hướng đánh giá các ứng cử viên qua cái “mác” trường đại học người đó đã tốt nghiệp. Điều này tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt để giành được chỗ học trong các trường nổi tiếng. Cuộc cạnh tranh này lan tới tận cấp tiểu học. Điều này buộc các học sinh phải theo học tại các trường luyện thi hoặc lớp luyện thi do các giáo viên tư nhân dạy. Việc học thêm này được tiến hành sau hoặc ngoài giờ học chính khoá làm cho đa số học sinh có ít thời gian cho các hoạt động vui chơi, giải trí.  Theo điều tra của Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Kỹ thuật Nhật Bản, có khoảng 37% học sinh tiểu học, 76% học sinh trung học cơ sở và 37% học sinh trung học phổ thông học tại các trường luyện thi. 
      Những nỗ lực cải cách
      Năm 2001 là năm đầu tiên Nhật Bản bắt đầu thực hiện sáng kiến cải cách giáo dục (ERI). Trên cơ sở báo cáo đầu tiên của Ủy ban Cải cách Giáo dục Quốc gia (NCER), một kế hoạch tổng thể về các nỗ lực sẽ được thực hiện để cải cách giáo dục đã được vạch ra. Vào năm 2002, Nhật Bản đã đưa vào áp dụng một chương trình giảng dạy mới ở các nhà trẻ, trường tiểu học và trung học cơ sở, với mục tiêu giảm dần sự giáo điều và nâng cao khả năng sáng tạo của học sinh. Một lịch học 5 ngày/tuần cũng được áp dụng nhằm tạo ra môi trường giáo dục không có áp lực.
      Tuy nhiên, do những lo ngại về việc suy giảm chất lượng giáo dục, vào tháng 2.2006, Hội đồng Giáo dục Trung ương – cơ quan tư vấn cho Bộ trưởng Giáo dục Nhật Bản – đã soạn thảo một dự thảo báo cáo, trong đó đề xuất tăng số lượng tiết học đối với một số môn như tiếng Nhật, Toán và một số môn khoa học khác. Tháng 10.2006, để hỗ trợ Chính phủ hoạch định chính sách cải cách hệ thống giáo dục công lập, theo sáng kiến của Thủ tướng Shinzo Abe, Chính phủ Nhật Bản đã thành lập Hội đồng Cải cách Giáo dục (ERC), gồm 17 thành viên do ông Ryoji Noyoji, người đã từng nhận giải Nobel hóa học, làm Chủ tịch. 
      Vào ngày 24.1.2007, ERC đã trình báo cáo đầu tiên lên Thủ tướng, trong đó chỉ ra các vấn đề bất cập trong hệ thống giáo dục hiện hành ở Nhật Bản như tình trạng trốn học, sự gia tăng bạo lực ở học đường, tình trạng chia bè kéo cánh trong các lớp học, trình độ giáo viên thấp và khả năng cạnh tranh thấp trong lĩnh vực đào tạo sau đại học so với các nước khác. Theo ERC, các yếu tố tiêu cực vốn có trong nỗ lực xây dựng môi trường giáo dục không áp lực là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những trục trặc trong hệ thống giáo dục công lập ở Nhật Bản. ERC đã đề xuất một loạt các giải pháp nhằm cải tổ hệ thống giáo dục không áp lực như tăng thời gian học tập trên lớp lên 10%, cải cách hệ thống bổ nhiệm và sa thải giáo viên, cải cách hệ thống ủy ban giáo dục ở các địa phương…
      Sau khi nhận được báo cáo của ERC, Thủ tướng Abe đã quyết định trình Quốc hội sửa đổi 3 luật liên quan tới giáo dục, trong đó đề xuất áp dụng hệ thống gia hạn giấy phép giảng dạy, cải cách ủy ban giáo dục và một số thay đổi khác. 
      Vào ngày 1.6.2007, ERC tiếp tục trình báo cáo thứ 2 lên Thủ tướng Abe trong đó đề xuất các biện pháp cụ thể nhằm thực hiện các ý tưởng cải cách đã đưa ra trong báo cáo thứ nhất. Báo cáo này hướng tới mục tiêu hợp lý hóa việc phân phối ngân sách và cải thiện chất lượng giáo viên thông qua việc áp dụng nguyên tắc cạnh tranh giữa các trường học, đặc biệt giữa các trường đại học. Nhằm tăng số lượng giờ học, báo cáo này đã đề xuất việc sử dụng kỳ nghỉ hè và các ngày Thứ Bảy nếu cần thiết. Ngoài ra, trong báo cáo này, ERC cũng đề xuất việc đưa giáo dục đạo đức thành một môn học mới tại các trường nhằm giảm thiểu tình trạng bạo lực học đường. Tại cuộc họp gần đây với ERC, Thủ tướng Abe đã yêu cầu Bộ trưởng Giáo dục làm việc tích cực để cụ thể hóa bốn điểm gồm: cho phép các trường học tổ chức lớp học trong các ngày Thứ Bảy, đưa giáo dục đạo đức thành một môn học mới ở các trường, cho phép các trường đại học quốc lập bắt đầu tuyển sinh vào tháng 9, và điều chỉnh hệ thống lương giáo viên.
      Theo dự kiến, ERC sẽ đưa ra báo cáo lần 3 về vấn đề này vào cuối năm nay.

Bằng Linh