Độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành là phù hợp
Một trong những định hướng cơ bản nêu trong Đề án Phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 là tổ chức lại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) với cơ cấu và tính chất hoạt động như một Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) hiện đại, hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN.

Trong bối cảnh đó, một trong những vấn đề cốt yếu đặt ra cần được giải đáp thỏa đáng là: NHNN cần độc lập tự chủ ở cấp độ nào là phù hợp? Theo một nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), về cơ bản, các NHTƯ trên thế giới được phân thành 4 cấp độ độc lập tự chủ.
Thứ nhất, độc lập tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động. Với mô hình này, NHTƯ có trách nhiệm quyết định chính sách tiền tệ (CSTT), chế độ tỷ giá (nếu không theo chế độ thả nổi tỷ giá) và có quyền quyết định mục tiêu hoạt động chủ yếu trong số các mục tiêu đã được pháp luật quy định. Đây là cấp độ độc lập tự chủ cao nhất một NHTƯ có thể đạt được mà ví dụ điển hình là Hệ thống Dự trữ Liên bang Mỹ (FED). Tuy nhiên, nó là cấp độ khó vận dụng nhất, vì đòi hỏi NHTƯ phải có uy tín cao và năng lực thực thi rất tốt mới có thể biến mục tiêu thành hiện thực, nhất là trong giai đoạn thực thi CSTT thắt chặt. Bên cạnh đó, cấp độ này cũng đòi hỏi NHTƯ có khả năng dự báo chuẩn xác trên cơ sở các thống kê kinh tế- tài chính, vì chỉ có như vậy thì NHTƯ mới có thể thực hiện được mục tiêu đề ra.
Ngoài các lý do về trình độ phát triển kinh tế và thể chế chính trị, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống tài chính nói riêng đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, việc dự báo dựa trên các biến số kinh tế- tài chính là rất khó khăn; Bên cạnh đó, năng lực thống kê và dự báo của NHNN hiện vẫn còn rất hạn chế, vì vậy, mức độ tự chủ này là không phù hợp với NHNN ít nhất là trong thời gian trung hạn.
Thứ hai, độc lập tự chủ trong thiết lập chỉ tiêu hoạt động. Theo mô hình này, NHTƯ cũng được trao trách nhiệm quyết định CSTT và chế độ tỷ giá nhưng khác với cấp độ độc lập tự chủ ở chỗ: Việc thay đổi mục tiêu duy nhất đòi hỏi phải sửa đổi Luật NHTƯ. Hơn nữa, tương tự như lý do vừa nêu ở trên, cấp độ độc lập tự chủ này cũng tỏ ra không phù hợp với NHNN trong giai đoạn trước mắt. Tuy nhiên, trong tương lai, cấp độ độc lập này có thể được cân nhắc, xem xét khi điều kiện cho phép (các biến số kinh tế- tài chính đã trở nên ổn định hơn; Năng lực thống kê, dự báo của NHNN Việt Nam được nâng lên…).
Thứ ba, độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành: Với mô hình này, Chính phủ hoặc Quốc hội quyết định chỉ tiêu CSTT sau khi thảo luận, thỏa thuận với NHTƯ. Khi quyết định được thông qua, NHTƯ có trách nhiệm hoàn thành chỉ tiêu trên cơ sở được trao đủ thẩm quyền cần thiết để có thể toàn quyền lựa chọn những công cụ điều hành CSTT phù hợp nhất. Tiêu biểu cho cấp độ độc lập tự chủ này là Ngân hàng Dự trữ New Zealand và Ngân hàng Canada. Với cấp độ tự chủ này, NHTƯ được trao đủ thẩm quyền để lựa chọn các công cụ điều hành một cách linh hoạt và phù hợp nhất nhằm đạt được các chỉ tiêu đã được thỏa thuận giữa Chính phủ/Quốc hội với NHTƯ.
Thứ tư, độc lập tự chủ hạn chế. Đây là cấp độ độc lập tự chủ thấp nhất, theo đó Chính phủ là nơi quyết định chính sách (cả về mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như can thiệp vào quá trình triển khai thực thi CSTT. Nói cách khác, NHTƯ thực chất là một cơ quan của Chính phủ. Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHTƯ, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền. Đây chính là trường hợp của NHNN Việt Nam hiện nay và trên thực tế thì mức độ độc lập tự chủ này đã bắt đầu bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập.
Một số công trình nghiên cứu khác nhau cũng đã đi đến kết luận: Những nước mà NHTƯ có mức độ độc lập tự chủ cao thường có tỷ lệ phạm phát thấp. Đồng thời thường nghiêng về ý kiến cho rằng nên giao việc xây dựng, quyết định và thực thi CSTT cho một NHTƯ chuyên sâu, độc lập và kiên định với mục tiêu hàng đầu là duy trì sự ổn định giá cả. Điều đó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của các tác động về mặt chính sách cũng như uy tín của các nhà hoạch định chính sách. Tất nhiên, tính độc lập của NHTƯ cần được xây dựng trên cơ sở các quy định pháp lý liên quan. Việc thiếu tôn trọng pháp luật ở một số nước là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng NHTƯ độc lập về mặt hình thức không có khả năng kiểm soát lạm phát và thực thi các chức năng một cách có hiệu quả.
Như vậy, cấp độ độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành tỏ ra phù hợp nhất với NHNN Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh việc điều hành CSTT ở nước ta đã từng bước được đổi mới theo nguyên tắc thị trường, dần loại bỏ các công cụ trực tiếp và đã sử dụng các công cụ gián tiếp như lãi suất cơ bản, nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ tái chiết khấu, tái cấp vốn. Hơn nữa, mức độ độc lập tự chủ này cho phép dung hòa giữa mục tiêu của CSTT với các mục tiêu của chính sách kinh tế trong một giai đoạn nhất định; Và nhất là khi mà vị thế của NHNN Việt Nam vẫn được xác định là một cơ quan của Chính phủ “thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng” theo tinh thần của Đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
Doãn Hữu Tuệ