Một năm 3 phim

27/03/2007 00:00

37 tuổi đời cùng hơn 10 năm tham gia vào điện ảnh, số bộ phim mà Norton tham gia không phải là nhiều, nhưng mọi người vẫn gọi anh là “tắc kè hoa” vì sự đa dạng của những vai mà anh đã thể hiện: từ nhân vật chính diện cho tới vai phản diện, từ vai giản đơn cho tới vai có nội tâm phức tạp… Edward Norton luôn sẵn sàng trước những thử thách mới mẻ từ các bộ phim cũng như khẳng định được phong cách đặc trưng của riêng mình trước các ngôi sao nổi tiếng như Richard Gere, Brad Pitt hay Anthony Hopkins…

      Trưởng thành từ môi trường gia đình nghiêm khắc, cha là luật sư còn mẹ là giáo viên, con đường học vấn của Edward Norton khá thành công, và thật dễ hiểu khi sự nghiệp diễn viên ở Hollywood không phải là lựa chọn đầu tiên của anh. Trong những năm theo học tại trường đại học Yale danh tiếng, Norton hăng hái tham gia những hoạt động nghệ thuật sôi nổi tại trường, chính anh cũng không thể ngờ sau này mình cũng như một số bạn cùng lớp như Ron Livingston hay Paul Giamatti lại trở thành diễn viên. Năm 1991, sau khi tốt nghiệp với tấm bằng cử nhân về lịch sử, anh đến Nhật Bản làm việc trong công ty của gia đình. Thời gian này Norton rất chăm chỉ tìm hiểu về nền văn hoá phương Đông mới lạ, sau đó anh đã nói thông thạo tiếng Nhật. Một thời gian sau, Edward Norton quay về Mỹ, bắt đầu tham gia hoạt động nghệ thuật bằng những vai diễn ở sân khấu kịch Broadway, rồi dần dần anh đến với điện ảnh.
        Bộ phim đầu tiên Norton tham gia là Primal Fear (Nỗi sợ hãi lớn nhất) năm 1996 với vai Aaron Stampler, một thanh niên bị tình nghi là hung thủ giết người man rợ. Vai diễn này đã mang lại cho anh giải thưởng Quả cầu vàng danh giá cùng đề cử giải Oscar cho diễn viên phụ xuất sắc nhất. Hai năm sau, Edward Norton được đề cử Giải thưởng Viện Hàn lâm với vai một tên phát xít đời mới lạnh lùng tàn nhẫn trong phim American History X. Năm 1999, anh lại toả sáng trong bộ phim Fight Club được dựng theo tiểu thuyết của nhà văn Chuck Palahniuk. Ngoài ra Norton còn được công chúng và giới phê bình điện ảnh đánh giá cao qua những vai diễn trong các bộ phim như Italian Job (Phi vụ Italy), Kingdom of Heaven (Tử chiến thành Jerusalem). Không chỉ đóng phim anh còn quyết định thử sức làm đạo diễn, và Norton đã thực hiện bộ phim đầu tay Keep the faith (Giữ lấy niềm tin) năm 2000.  
        Năm 2006 vừa qua là một năm khá bận rộn với Edward Norton khi có tới ba bộ phim mà anh tham gia được liên tiếp phát hành. Hãy nghe anh nói về những bộ phim này: “Trong thực tế, ba bộ phim đó chúng tôi đã thực hiện trong hơn ba năm; thật thú vị khi chúng lại phát hành gần nhau như vậy. Đôi lúc tôi tự hỏi khán giả có chán nhìn mặt tôi không?” Norton cười hóm hỉnh. Bộ phim The Illusionist (Kẻ ảo tưởng) ra mắt vào tháng 8.2006, ban đầu không được giới phê bình đánh giá cao, nhưng lại gây bất ngờ khi đem lại doanh thu lớn với số lượng khán giả đến rạp đáng kể. Bộ phim thứ hai, Down in the valley (Dưới thung lũng) cũng đã nhận được những đánh giá lạc quan từ công chúng. Bộ phim nổi bật nhất, The Painted Veil (Tấm mạng trong tranh) dựa theo cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1925 của nhà văn Somerset Maugahm, một câu chuyện tình lãng mạn đầy tính nhân văn. Một cặp vợ chồng trẻ người Anh, Walter Fane (Edward Norton đóng) và Kitty (Naomi Watts đóng) rất khác nhau về tính cách. Chồng là một bác sĩ giỏi còn cô vợ là một tiểu thư ích kỷ. Họ đến Thượng Hải và ở đây, cô vợ phải lòng một người đàn ông khác. Khi người chồng phát hiện ra vợ ngoại tình, anh trả thù họ bằng cách đưa vợ đi thật xa người đàn ông đó. Trong chuyến chạy trốn ấy, trải qua nhiều khó khăn họ đã dần tìm thấy niềm tin và tôn trọng lẫn nhau, tình yêu lại nảy nở. Trong quá trình làm phim ở Trung Quốc, Norton bị tai nạn ngã ngựa làm gãy xương sườn, nhưng ngay sau khi bình phục anh đã nhanh chóng quay lại với công việc đang dang dở. Chính diễn xuất tuyệt vời của hai diễn viên chính khi lột tả sự phản bội, sự trả thù và lòng vị tha đan xen đã đưa Tấm mạng trong tranh lọt vào danh sách 10 phim hay nhất năm 2006 do Hội phê bình điện ảnh Mỹ bình chọn.

Nguyễn Đức Duy