Ngành công nghiệp Việt Nam sau khi gia nhập WTO
Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động sẽ có cơ hội phát triển mạnh trong khi những ngành sử dụng nhiều vốn, nhiều công nghệ cao, hoặc sử dụng nhiều cả 2 yếu tố này sẽ đi vào suy thoái.
Gia nhập WTO sẽ mang đến cho Việt Nam và các nhà sản xuất công nghiệp nhiều cơ hội cũng như nhiều thách thức to lớn. Với cam kết tuân thủ các luật lệ thương mại quốc tế, các rào cản hàng hóa và dịch vụ nước ngoài sẽ bị hạ thấp, và cánh cửa sẽ được mở rộng hơn nữa cho đầu tư nước ngoài.
Để phân tích ảnh hưởng của gia nhập WTO lên sự phát triển ngành công nghiệp ở Việt Nam, trước tiên cần xác định những nhóm ngành cũng như nhóm doanh nghiệp có lợi thế so sánh và không có lợi thế so sánh. Nhóm ngành có lợi thế so sánh bao gồm dệt may, da giày, chế biến lương thực thực phẩm, sản xuất đồ gia dụng, sản phẩm kim loại, sản phẩm cao su, sản phẩm khoáng sản phi kim loại, và sản phẩm nhựa – tất cả đều là những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động với mức độ công nghệ và chế biến thấp.
Nhóm ngành không có lợi thế so sánh bao gồm những ngành như sản xuất máy móc thông thường, luyện và đúc kim loại màu, sản phẩm và nguyên liệu hóa chất, sản xuất thiết bị giao thông vận tải, sản phẩm điện tử và viễn thông, giấy và sản phẩm giấy, sản phẩm hóa dầu và chưng cất, khai thác và cung cấp khí đốt, khai thác và chế biến kim loại màu, thiết bị và dụng cụ đo lường chính xác máy móc văn phòng, sợi hóa học v.v... Đây là những ngành có mức độ chế biến cao và/hoặc là những ngành sử dụng nhiều công nghệ cao và/hoặc vốn. Những ngành đang được bảo hộ và khuyến khích phát triển nhất – ôtô, hóa dầu, công nghiệp điện tử - là những ngành không có lợi thế so sánh.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, những ngành công nghiệp và doanh nghiệp có lợi thế so sánh (tức là có thể cạnh tranh với các ngành và doanh nghiệp cùng loại của nước ngoài thông qua xuất khẩu sản phẩm hoặc đầu tư ra thị trường nước ngoài) sẽ có thêm nhiều cơ hội tiếp cận các thị trường nước ngoài và do đó sẽ có thể phát triển mạnh. Ngược lại, gia nhập WTO sẽ mang đến nhiều ảnh hưởng có hại cho những ngành và doanh nghiệp hoàn toàn không có lợi thế so sánh, như các ngành công nghiệp sử dụng nhiều vốn, nhiều công nghệ, hoặc sử dụng nhiều cả hai yếu tố này. Những ngành này lại đang chiếm một tỷ trọng lớn trong giá trị gia tăng ngành công nghiệp và là những ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu, sử dụng công nghệ cao, và một số trong đó được xác định là ngành công nghiệp then chốt. Tuy nhiên, những ngành này không có tính cạnh tranh quốc tế nếu không có sự bảo hộ và hậu thuẫn chặt chẽ của chính phủ.
Sau gia nhập, nếu không có những điều chỉnh thích hợp trong hoạch định chính sách phát triển công nghiệp thì những ngành công nghiệp không có lợi thế so sánh sẽ bị đào thải dần bằng sản phẩm nhập khẩu. Cho đến nay những ngành này vẫn được nhà nước bảo hộ chặt chẽ và khuyến khích phát triển bằng nhiều biện pháp. Sự bảo hộ này sẽ phải được điều chỉnh lại cho phù hợp với các luật lệ của WTO nếu nhà nước tiếp tục muốn duy trì và phát triển những ngành công nghiệp này. Chẳng hạn biện pháp bảo hộ thông qua quy định tỷ trọng nội địa hóa và các ưu đãi đi kèm sẽ bị bãi bỏ. Giải pháp thay thế tạm thời có thể sẽ là chính sách thuế và trợ cấp trong phạm vi mà WTO cho phép.
Sau gia nhập WTO, có thể dự đoán một xu hướng phát triển công nghiệp ở Việt Nam như sau: những ngành có lợi thế so sánh sẽ phát triển mạnh và những ngành không có lợi thế sẽ thu hẹp đáng kể. Nói cách khác, những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động sẽ có cơ hội phát triển mạnh trong khi những ngành sử dụng nhiều vốn, nhiều công nghệ cao, hoặc sử dụng nhiều cả 2 yếu tố này sẽ đi vào suy thoái. Đây là điều ngoài ý muốn của chính phủ khi mà chiến lược phát triển công nghiệp của Việt Nam là tích cực sản xuất và xuất khẩu sản phẩm của những ngành công nghiệp có lợi thế so sánh và dùng nguồn ngoại tệ thu được để “nuôi” những ngành công nghiệp không có lợi thế so sánh nhưng được xác định là ngành công nghiệp mũi nhọn, chiến lược, ví dụ như những ngành công nghệ cao.
Tuy rằng có những giải pháp đối phó với áp lực thay đổi mang đến từ WTO để duy trì những ngành công nghiệp không có lợi thế so sánh này, nhưng những giải pháp này sẽ là vô nghĩa nếu mục đích của chúng chỉ là để phục vụ cho một nhóm lợi ích nào đó chứ không phải là phục vụ mục tiêu phát triển chung của cả nền kinh tế. Trên hết, điều cần làm sau gia nhập WTO là phải cân nhắc cẩn thận ngành công nghiệp nào nên, có thể phát triển được, và chiến lược phát triển cần có (chủ yếu là nhấn mạnh vai trò của nghiên cứu và ứng dụng, phối hợp các doanh nghiệp với nhau, bảo hộ một cách hợp lý bằng thuế quan và trợ cấp...). Song song là việc khuyến khích các doanh nghiệp và các ngành công nghiệp phải tăng cường tính cạnh tranh và không ngừng vươn lên trên bậc thang giá trị gia tăng để mở rộng danh sách những ngành, những doanh nghiệp có lợi thế so sánh và có tính cạnh tranh toàn cầu. Việc này có thể làm được thông qua những cải cách về chính sách nội địa (như đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, tự do hóa thương mại) nhằm đặt các doanh nghiệp và các ngành trước tình huống “đấu tranh hay là chết” để chúng nỗ lực phấn đấu trở thành những doanh nghiệp và những ngành mang đẳng cấp quốc tế.
TS Phan Minh Ngọc